Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2011

BANGKOK 11/2010

BANGKOK 11/2010
Graphic m
 
AT 6
 
THỦ_ĐÔ_BANKOK
IMG_0026IMG_0032
 
IMG_0024IMG_2455
IMG_2402IMG_2429IMG_2409IMG_0025
 

SLIDE SHOW TRÊN YOUTUBE ĐƯỜNG PHỐ BANGKOK THÁI LAN

đường phố bangkok
 
CHÙA VÀNG BANGKOK THÁI LAN TẠI NGÔI CHÙA NÀY CÓ TƯỢNG PHẬT BẰNG VÀNG

                RÒNG NẶNG 7.000kg bẩy tấn

 
                                     

                                     Du lịch Thái Lan 4 ngày 25-28/11/2010
         
đoàn đi du lịch Thái Lan 4 ngày 24-28/11/2010 . gồm 60 người do Coty TST tổ chức, chương trình gồm ,đêm 24/11 bay qua Bangkok ngủ tại hotel Bangkok center 7gio30 ngày 25/11 ăn sáng tại hotel ,8g30 khởi hành đi Pattayar ,cách Bangkok 170km đoàm gồm 2 xe bus 50 chỗ .Trên đường đi đoàn ghé  thăm trung tâm trưng bày và bán tổ yến và các sản phẩm tổ yến ,tiếp tục ghé thăm cửa hàng trưng bày và bán các sản phẩm sấy khô ,như rau củ quả , các loại hải sản vv.v. 13gio ăn trưa  tại Pattayar rồi về khách sạn All season nghỉ trưa ,̣tự do đến 17gio đoàn đi ăn chiều tại 1nhà hàng ở Pattayar ,ăn xong người nào mua vé xem sexy show thi lên 1xe ,người không mua vé lên 1xe về khách sạn tự do .Sáng 26/11 ăn sáng tại khách sạn 7gio30 khởi hành ra bờ biển đi Bobo cao tốc ra sà lan ngoài khơi cách bờ khoảng 5km tại đây chơi dù bay khoảng 1gio sau đi Bobo tiếp ra đảo khoảng 20phút tới reasort tắm biển cách bờ khoảng 25-30km ,Đến 10gio30 trở lại  bờ lên xe về khách sạn ăn trưa tại nhà hàng của khách sạn nghỉ trưa .13gio30 đoàn đi thăm trung tâm mai dũa kim cương đá quí trưng bày và bán các sản phẩm kim cương đá quí , 14gio45 đến trung tâm văn hoá xem trình diễn văn hoá Thái Lan tiếp theo đi ra phiá sau sân khấu là sân trình diễn của các chú voi đã được thuần dưỡng,các bạn nhấn chuột trái vào link dưới xem ảnh, khi trang ảnh mở ra muốn ảnh mở lớn nhấn chuột trái vào ảnh
Ảnh chụp khách sạn all Season ,các bạn nhấn chuột trái vào link xem ảnh
VIDEO khách sạn all season
 
Các bạn nhấn chuột trái vào link dưới xem VIDEO
<
16gio45lên xe đến khu vực trồng lan hoa lan cây kiểng dung phương pháp ghép ,cấy lai giống zen,17gio35 ăn chiều ở nhà hàng tại khu vực này,ăn xong có 30phút chụp hình ở công viên ,khu vực này rất rông phối hợp công viên hoa cây kiểng nhà hàng. Sau đó về lại Pattayar  đến nhà hát ,xem show những người đẹp chuyển đổi giới tính <từ thanh niên chuyển đổi> trình diễn rất hoành tráng ,đến 20gio45 những ai đã mua vé xem sexy show hôm 25 ,tiếp tục xem show 2 còn những người khác về khách sạn tự do .Sáng 27/11 tất cả dọn đồ xuống sảnh tập trung ,ăn bffet sáng tại nhà hàng trong khách sạn 8gio mọi người lên xe nhóm nào xe đó điểm danh ,về lại Bangkok,trên đường đi ghé trung tâm nuôi rắn hổ mang chúa và các loại rắn độc .Các bạn nhấn chuột trái vào link dưới xem ảnh
<
Các bạn nhấn chuột trái vào link dưới xem VIDEO
Tại SAFARI PARK   ăn trưa và xem cá heo trình diễn tiếp theo đến phim trường quay những bộ phim điệp viên 007 nổi tiếng những năm 1970 , Tiếp theo lên xe đến vườn thú mở lúc này là 15gio45 ,xe đi vòng qua các khu vực thú sinh sống ,chúng ta ngồi trong xe car nhìn qua cửa kính ,các con thú ở đây những người trông coi ở đây đem thức ăn cho chúng .các bạn nhấn chuột trái váo link dưới xem ảnh 
<
16 gio20 đi về Bangkok ,đi hơn 1 gio khi tới trung tâm Bangkok la 17gio45 ,tất cả mọi người được đưa đến trung tâm thương mại để mua sắm ,trước khi vào mỗi người được phát 1thẻ như thẻ ATM đã nạp sẵn 100bat Thái để vào trung tâm ăn chiều ,nếu ăn nhiều hơn thì chúng ta phải bù nếu còn dư chúng ta đến những điểm trong trung tâm họ sẽ trả lại cho chúng ta bằng thiền Thái Lan hãy giữ làm kỷ niệm; Đến 19gio30 tất cả lên xe về hotel Bangkok centre làm thủ tục nhận phòng và tự do .6gio30 sáng ngày 28/11/2010 ,tất cả mọi người tập trung hành lý tại sảnh , rồi vào nhà hàng của khách sạn sát bên ăn Buffet sáng ,đến 7gio30 mang hành lý ra xe  ,đến thăm chùa vàng Bangkok .các bạn nhấn chuột trái link dưới xem ảnh
<
9gio30 lên xe ra phi trường Bangkok làm thủ tục xuất cảnh về VN . các bạn nhấn chuột trái vào link dưới xem ảnh phi trường Bangkok

 


 

BIỂU DIỄN VOI Ở THÁI LAN

Những chú voi khi được 6 tuổi <6năm> được đưa đến trung tâm huấn luyện ở chung với những chú voi đã được thuần dưỡng xong ,những chú voi này sẽ được học ở trung tâm từ 10-12 năm lúc này biết nghe lời và hiểu được người nài ra lệnh cho chúng , sau đó học thêm 2-3 năm chuyên môn công việc do chủ của nó muốn nó làm việc gì ,lúc này nó đã trưởng thành , và phục vụ chủ của nó từ 20 đến 30 năm , Tại Thái Lan có trung tâm huấn luyện voi đứng nhất nhì thế giới
VIDEO những chú voi trình diễn ,các bạn nhấn chuột trái vào link dưới tất cả có 9 clip
2KTH212TKH2TVKH
QC2DVN2DLTPHCM2N
 BOUTON CHOP VN2DN.VN DU LICH KHOA HOC BOUTON CHOP DULICH LICH SU BOUTON CHOP 
 KY THUAT KHOA HOC BOUTON CHOP KHOA HOC THE KY 21 BOUTON CHOP QUANG CAO DICH VU BOUTON CHOP2 
PHOTOHOUSE DOI CAT TRANG BANER CHOP 
THANH_HÀ AO DAI BOUTON CHOP2 
NGOC THANH NHAT TAO BOUTON CHOP  
KIM_HÀ_NHÀ THUOC Y HOC BOUTON CHOP2 
HONG PHAT BOUTON CHOP              
Graphic4
Những điều bắt buộc của người theo đạo hồi
 
 
 
 
  
NĂM NGHĨA VỤ THIÊNG LIÊNG CỦA CÁC TÍN ĐỒ HỒI GIÁO
(The five ritual duties of Islam)
      
          Cũng như các tôn giáo đôc thần khác, đạo Hồi có những nghi lễ tôn giáo riêng biệt được giáo hội qui định để các tín đồ tuân hành một cách nghiêm túc và đồng nhất trong việc tôn thờ Thiên Chúa cũng như trong việc chấp hành luật đạo. Khi thực hiện các nghi lễ này, đạo Hồi buộc tín đồ phải tập trung chú ý (intention) và phải hết sức chân thành (full sincerity). Nếu thiếu một trong hai điều kiện này thì mọi nghi lễ sẽ bị coi là vô ích.
          Có 5 nghi lễ quan trọng nhất trong đạo Hồi, thường được gọi là "Năm cột trụ của Hồi Giáo" (The five pillars of Islam):
    Thứ nhất: Công khai tuyên xưng một Thiên Chúa là Allah và tin rằng ngoài Allah ra không có một Thiên Chúa nào khác. Đồng thời tín đồ phải công khai tuyên xưng Muhammad là sứ giả của Thiên Chúa thì mới nhận lãnh được ơn Chúa (There is no Deity but Allah. Obey Allah and the Messenger so that you may find mercy - Koran 3:132)
     Thứ hai: Khi cầu nguyện Allah, phải quay mặt về phía thánh địa Mecca (thủ đô xứ Saudi Arabia ngày nay)
       - Lần thứ nhất vào lúc rạng đông
       - Lần thứ hai đúng ngọ
       - Lần thứ ba sau trưa
       - Lần thứ tư lúc mặt trời lặn
      - Lần thứ năm lúc nửa đêm.
     Dù tín đồ Hồi Giáo đang làm gì và ở bất cứ đâu (ở giữa sa mạc hoặc trên đường phố, tại sở làm hay tại trường học, bến xe, chợ búa v.v...) cứ đến giờ cầu nguyện là họ quì mọp xuống đất để thực hiện các nghi lễ này. Mọi du khách đến các nước Hồi Giáo thường rất ngạc nhiên về nghi thức cầu nguyện đặc biệt của các tín đồ Hồi Giáo.
    Trong các cộng đồng Hồi Giáo, có một người chuyên trách việc nhắc nhở các tín đồ cầu nguyện một ngày 5 lần, tiếng Ả Rập gọi người đó là MUEZZIN. Trong suốt 14 thế kỷ qua, những người muezzin trên khắp thế giới luôn luôn đọc một câu không hề thay đổi như sau: "Thiên Chúa Allah là Đấng Tối Cao trên hết mọi sự. Tôi tin không có một Thiên Chúa nào khác ngoài Allah. Tôi tin Muhammad là thiên sứ của Chúa. Mọi người hãy cầu nguyện, hãy đến để nhận ơn cứu rỗi. Thiên Chúa Allah vĩ đại vô cùng".
    (God is the Supreme Being over all thing. I bear witness that there is no Deity but God. I bear witness that Muhammad is the Messenger of God. Come to prayer. Come to Salvation. Allah is most great).
   Khi cầu nguyện tại nhà thờ Hồi Giáo, mọi người đàn ông đứng thành hàng ngang sát nhau. Đàn bà luôn luôn xếp hàng ở phía sau đàn ông hoặc cầu nguyện tại nhà riêng. Trong nhà thờ Hồi Giáo (giống như Tin Lành) không có bàn thờ hoặc ảnh tượng, không có người chủ lễ. Chỉ có người hướng dẫn cầu nguyện (prayer-leaders) tiếng Ả Rập gọi là Imam. Các Imam là người thường (không phải là tu sĩ) có khả năng đọc kinh Koran và các sách khác của đạo Hồi. Ngoài việc hướng dẫn cầu nguyện, các Imam còn giảng thuyết về giáo lý hoặc hô hào vận động về các vấn đề tôn giáo, xã hội, chính trị v.v... Các Imam thường có uy tín lớn trong các cộng đồng Hồi Giáo và được mọi tín đồ kính trọng.
    Sau khi cầu nguyện xong, mọi người quay sang trái sang phải bắt tay và cúi chào những đồng đạo ở quanh mình. H chúc nhau "bình an và đầy ơn Chúa" (peace and blessings of God). Cử chỉ thân thiện giữa những người đồng đạo với nhau đã được thực hiện trong thế giới Hồi Giáo từ 14 thế kỷ qua. Mới đây, người Công Giáo đã bắt chước và làm những cử chỉ tương tự trong các buổi lễ Misa tại nhà thờ.
    Thứ ba: Bố thí cho kẻ nghèo (Almsgiving). Hồi Giáo coi việc bố thí này là một thứ thuế tôn giáo (a religious tax) đối với mọi tín đồ có lợi tức. Số tiền này được ấn định là 1/40 hoặc 2.5% lợi tức hàng năm. Trong các nước Hồi Giáo được coi là quốc giáo thì tiền bố thí được chính thức gọi là "thuế bố thí" (Zakat) do chính phủ trực tiếp thu. Tuy vậy, người nạp thuế vẫn có quyền đóng nhiều hay ít tùy theo khả năng và hoàn cảnh riêng của mình. Tổng số tiền thu được trở thành một thứ quĩ xã hội của quốc gia để cứu giúp hữu hiệu những người nghèo khó, cô quả, già yếu, bệnh tật, hoạn nạn hoặc không còn khả năng làm việc. Kinh Koran dạy rằng: "Bố thí là bổn phận do Thiên Chúa đòi hỏi". Do đó, các tín đồ Hồi Giáo quan niệm bố thí là nghĩa vụ chứ không phải là một hành vi bác ái hoặc từ thiện.
   Thứ tư: Ăn chay trong tháng Ramadan (tháng 9 âm lịch Hồi Giáo). Việc ăn chay này kéo dài suốt tháng: không ăn không uống trong suốt thời gian ban ngày (daylight hours) tức từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn từ ngày đầu tháng đến rạng mồng một tháng mười. Người ăn chay chỉ được phép ăn một cách từ tốn sau khi mặt trời lặn. Trong suốt tháng Ramadan không ai được uống rượu, làm tình hoặc hút thuốc.
    Việc ăn chay cũng có một số ngoại lệ. Đối với những xứ có nhiệt độ khí hậu cao, ngày dài đêm ngắn, các người già, thiếu nhi hoặc người bị đau yếu đều được miễn ăn chay vì nhịn nước quá lâu sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng. Tại các xứ kỹ nghệ cần có nhiều nhân công làm việc, các tín đồ chỉ cần ăn chay vài ngày trong tháng Ramadan mà thôi.
   Thứ tư: Hành hương các thánh địa tại  Saudi Arabia. Mecca là thánh địa số một của thế giới Hồi Giáo vì đó là nơi sinh của giáo chủ Muhammad và có ngôi đền Ka'ba được tin là do Abraham và Ismael xây dựng lên. Các tín đồ Hồi Giáo không phân biệt nam nữ đều được khuyến khích đến thăm Mecca ít nhất một lần trong đời. Thời gian chính thức của thế giới Hồi Giáo hành hương Mecca là vào tháng 12 Âm Lịch Hồi Giáo. Mỗi lần viếng thánh địa phải kéo dài ít nhất 5 ngày. Hiện nay, số tín đồ viếng Thánh Địa Mecca mỗi năm từ 3-5 triệu người.
   Vấn đề bảo vệ an ninh và cung cấp mọi phương tiện cho số khách hành hương khổng lồ này là mối quan tâm hàng đầu của chính phủ Saudi Arabia. Mỗi năm, chính phủ Saudi Arabia dành ra khoảng vài tỷ đô la để thực hiện chu đáo mọi công tác bảo vệ an ninh trật tự, cung cấp đầy đủ thực phẩm, nhà ở, y tế, vận chuyển và mọi nhu cầu cần thiết cho khách hành hương.
   Tất cả mọi tín đồ hành hương đến Mecca phải làm việc đầu tiên là cởi bỏ quần áo riêng của mình để mặc vào một bộ đồ trắng đơn giản sau khi đã tắm rửa sạch sẽ.  Đây là một việc bắt buộc mang ý nghĩa:  Các tín đồ Hồi Giáo, không phân biệt màu da, giàu nghèo, địa vị xã hội, tất cả đều là con cái của một cha là Thiên Chúa, tất cả là anh chị em của nhau và tất cả đều bình đẳng trước mặt Chúa. Các phụ nữ có quyền mặc quốc phục của mình nhưng tất cả đều phải trùm khăn che kín tóc.
CÁC ĐỊA ĐIỂM HÀNH HƯƠNG TẠI SAUDI ARABI
    Đia điểm 1: Đền Thờ KA'BA.  Tiếng Ả Rập Kaba có nghĩa là hình khối (The Cubic Building). Đây là một kiến trúc độc đáo có một không hai trên thế giới. Kiến trúc hình khối rộng 9m, dài 11m, cao 5m5 (36 feet x 30 feet x 18 feet).  Nóc và chung quanh kiến trúc đều được phủ bằng vải đen. Đền thờ này là trung tâm đức tin của 1 tỷ 200 triệu tín đồ Hồi Giáo vì đây là thánh địa số một của thế giới đạo Hồi. Từ nhiều ngàn năm trước khi có đạo Hồi, đền thờ Kaba đã hiện diện tại nơi đây và người Ả Rập đã gọi đền thờ này là Nhà Của Chúa (Bayt Allah = House of God).
   Từ xa xưa đến nay, mỗi khi đến viếng đền thờ Kaba các tín đồ xếp hàng đi ngược chiều kim đồng hồ 7 lần, (tượng trưng cho 7 tầng trời) vừa đi vừa đọc kinh Koran. Sau đó, mọi người đến viếng Hòn Đá Đen (The Black Stone). Đây là một thiên thạch (meteorite) đã từ trời rơi xuống nơi này không biết từ bao giờ, có thể là từ hàng chục ngàn năm về trước.
  Theo niềm tin Hồi Giáo thì tổ tông loài người là Adam đã xây dựng đền Kaba. Sau đó, Abraham và Ismael đã tu sửa lại đền thờ như ta thấy ngày nay.
         Đia điểm 2:  Suối Zamzam.  Đối diện với Hòn Đá Đen là Suối Zamzam. Từ nhiều ngàn năm trước, suối Zamzam đã nổi tiếng khắp vùng vì đây là một dòng suối lớn hiếm có trong sa mạc mênh mông. Thưở xưa, các đoàn lữ hành từ các nước miền Nam bán đảo Ả Rập muốn làm ăn buôn bán với các nước phía Bắc, như Syria chẳng hạn, đều phải ngừng chân tại suối Zamzam để lấy nước trước khi lên đường mạo hiểm vượt qua sa mạc Syro-Arabia. Từ nhiều thế kỷ trước khi có đạo Hồi, người Ả Rập đã loan truyền khắp nơi sự tích về Abraham: Sau khi vợ lớn của Abraham là Sarah sinh ra Isaac thì bà này nổi máu ghen với cô vợ bé của Abraham là Hagar. Bà buộc Abraham phải đuổi hai mẹ con Hagar ra khỏi nhà. Abraham đành phải dẫn Hagar và con trai Ismael đến sa mạc. Tại đây, thiên thần Gabriel đã hóa phép cho một dòng suối lớn xuất hiện giữa sa mạc và Ngài đặt tên là Suối Zamzam. Từ đó, Abraham và thiên thần Gabriel đã giúp cho hai mẹ con Hagar sinh sống. Đến khi Ismael trưởng thành, Abraham và Ismael đã xây dựng lại đền thờ Kaba do Adam xây dựng từ xa xưa nay đã hư nát do trận đại hồng thủy đời No-e (Noah).
    Địa điểm 3:  Cánh đồng  Arafat. Cách Mecca 13 miles có một cánh đồng rộng bao la gọi là cánh đồng Arafat. Ngay giữa cánh đồng có một ngọn núi nhỏ gọi là Núi Ơn Chúa (Mount of Mercy). Đây là nơi Muhammad giảng đạo lần cuối cùng trước khi qua đời. Mọi tín đồ phải đến đây trước buổi trưa, sau đó leo lên núi để cầu nguyện cho đến khi mặt trời lặn. Tất cả mọi việc được làm trong yên lặng. Nghi lễ này có tính cách bắt buộc cho mọi tín đồ hành hương vì thiếu việc này thì toàn bộ cuộc hành hương bị coi như không hoàn thành.
     Địa điểm 4:  Lễ Hy Sinh tại Mina.  Lễ Hy Sinh diễn ra ngày 10 tháng 12 Âm Lịch Hồi Giáo tại thị trấn Mina, cách cánh đồng Arafat 8 miles. Giáo lý Hồi Giáo dạy rằng: Mina chính là nơi Abraham nhận được lệnh của Thiên Chúa phải đích thân giết đứa con trai đầu lòng của mình là Ismael để làm Lễ Hy Sinh (Sacrifice) tế Chúa.
   Abraham là người tôn thờ Chúa trên hết mọi sự nên đã tuân lệnh Chúa một cách triệt để không chút chần chừ. Nhưng khi Abraham đưa con dao lên định giết con mình thì Thiên Chúa ra lệnh ngưng. Ngài truyền cho Abraham giết một con dê để thế mạng cho Ismael. Từ đó, kho tàng ngôn ngữ của nhân loại có thêm một danh từ kép là "con dê tế thần"  (the scape-goat). Cũng từ câu chuyện này, dân Do Thái và dân Ả Rập có tục lệ giết súc vật làm lễ hy sinh tế lễ Thiên Chúa (Animal Sacrifice) để kỷ niệm Lễ Hy Sinh của Abraham. Người Do Thái làm Lễ Hy Sinh hàng năm vào buổi chiều trước Lễ Vượt Qua (Passover). Tục lệ này có từ 2000 năm TCN đến năm 70 sau Công Nguyên là năm Jerusalem bị quân La Mã tàn phá bình địa và toàn dân Do Thái phải bỏ xứ tứ tán khắp nơi. Đạo Hồi làm Lễ Hy Sinh (Feast of Sacrifice) vào cuối chương trình hành hương thánh đia Mecca hàng năm.  Các súc vật thường bị giết trong Lễ Hy Sinh khắp thế giới không có cơ hội đi hành hương Mecca cũng giết súc vật tại nhà để làm lễ hy sinh kỷ niệm việc Abraham toan giết con trai đầu lòng của mình để tế Chúa. Nhiều chục triệu súc vật đã bị giết trong dịp Lễ Hy Sinh này.
       Địa Điểm 5: Medina. Chặng cuối của cuộc hành hương Thánh đia Hồi Giáo là thăm ốc đảo Medina, cách thủ đô Mecca 300 dặm về phía Bắc. Đây là nơi Muhammad đã sống 10 năm cuối cuộc đời của ông (622-632) cùng với nhiều bà vợ và với cộng đồng Hồi Giáo đầu tiên trong lịch sử (the first Muslim community).  Muhammad qua đời ngày 12 tháng 3 Âm Lịch Hồi Giáo năm 632.  Các tín đồ hành hương đến đây để kết thúc cuộc hành trình có tính cách tôn giáo thiêng liêng bằng cách đến viếng mộ của vị thiên sứ cuối cùng của Thiên Chúa và đến cầu nguyện tại đền thờ Medina là đền thờ đầu tiên của Hồi Giáo trên thế giới.
                           Bản dịch của Charly nguyễn
                                 Anh tuan sưu tầm
  

 
9 Mục gồm
1-Mục -đích của các tôn giáo
2-Tại sao ở Mỹ bãi bỏ chế độ nô lệ
 3-Thành phố đầu tiên của loài người
4-Chữ viết đầu tiên do dân tộc nào phát minh
 5- Cuốn sách đầu tiên của loài người bằng tấm đất sét
 6- Những điểm then chốtsự tiến hoá của loaì người
7- Tội ác của các tôn giáo cũng là những bước đi chập chững của loài người
8 – Sự tiến hoá của loài người
9 – Nguồn gốc của các tôn giáo 

1 - Tội ác của cac tôn giáo cũng là nhũng bước chập chững của loài người

Các tôn giáo đều đặt nền tảng trên thượng Đế , Ô. Trời  và  tự đặt ra  một tổ chức cai trị , gồm   luật , giáo điều , các thần thánh cai trị ..v..v   Dựa vào thế giới ảo tưởng tượng này .xây dựng một xã hội mà chúng ta đang sống , vì quyền lợi và lợi ích của những người cai tri. Họ phải biên soạn ra ra các giáo điều và luật lệ có lợi cho họ ; những bộ kinh , mà hiện nay trên thế giới đang tồn tại,kinh thánh ,kinh dịch kinh koral , kinh lễ , kinh lăng nghiêm  vv...v.tất cả các bộ kinh này được biên soạn ra rất nhiều thứ tiếng ,tuỳ từng thời kỳ.khi các đế chế xâm lăng và mở rộng đế chế của mình  . dùng chữ la tinh  ký tự theo âm nói của người bản địa sau một thời gian biến thành chữ viết của người bản địa , như chữ quốc ngữ của việt nam .  chữ tây ban nha v..v.      .Riêng ở phương đông , cuối thế kỷ 19 các nứơc như Trung quốc , nhật bản,triều tiên, Viêt nam khi nói chuyện thì không hiểu nhưng dùng chữ viết thì hiểu nhau bởi các nhà cai trị đều dùng kinh dich để mở rộng đế chế của mình ,
SỰ PHÂN HOÁ CỦA CÁC ĐẾ CHẾ    Khi các đế chế bành trướng đủ mạnh ,con cháu lại đông và trưởng thành, lúc này nẩy sinh tranh giàng phe cánh , các phe luôn luôn cấu kết , dùng mọi thủ đoạn để cho phe mình mạnh nhất,đây là nguồn gốc của sự phân hoá .nếu chúng ta nghiên cứu lịch sử thế giới sẽ rõ điều đó
                                                        Còn tiếp   30-4-2009       Anh tuân
-lý do là để được truyền ngôi ,còn không là dành ngôi, nếu đế chế rộng lớn thì khoanh vùng      Ly khai cai trị, từ những lý naỳ mà chiến tranh phải xảy ra lich sử cũng phải sửa lại cho thích   Hợp  nếu vùng cai trị rộng lớn , có nhiều dân tộc khác nhau , các giáo điều cũng như luật lệ đều phải sửa lại , các thần thánh được thêm vào  và bớt đi  , công việc này gọi là chính trị ,nếu kéo dài qua nhiều đời                                                                           
 còn tiếp
2 - Những điểm thời gian then chốt ,Sự tiến hoá của loài người
Dò tìm các đấu tích do con người để lại trên các vách đá, trong các hang động và khảo nghiệm các vật dụng do con người chế tạo bằng đá, bằng đồng, gỗ, đất nung... Các nhà khảo cổ đã dần dần tìm hiểu được lịch sử tiến hóa của loài người trong moị sinh hoạt của đời sống cá nhân và tập thể cho tới giới hạn thời gian 25 ngàn năm.Để có một ý niệm khái quát về thời tiền sử này, thiết tưởng cũng nên đề cập qua về những cái mốc thời gian quan trọng (viết theo tài liệu Archaeology in The Land of The Bible của Avraham Negev - Shoken Books N.Y.1977) :
- Thời Đồ Đá Cổ Đại (Old Stone e) từ 25.000 -10.000 Trước Công Nguyên (TCN) , con người chỉ biết săn bắt, hái lượm và sống trong hang động.
- Thời Đồ Đá Trung Đại (Middle Stone Age) 10.000-7500 TCN, con người biết trồng cấy, thuần hóa thú vật, chế tạo gạch và đồ gốm. Một số thành phố nhỏ xuất hiện với thành quách vây quanh. Đáng chú ý là thành phố Jericho được xây cất tại đồng bằng sông Jordan ở phía bắc Biển Chết (The Dead Sea) vào khoảng 8000 năm TCN. Cho tới nay, người ta tin rằng đây là thành phố đầu tiên trong lịch sử nhân loại đánh dấu sự chuyển hướng của con người từ cuộc sống lang thang du cư đến cuộc sống định cư.
- Thời Đồ Đá Cận Đại (New Stone Age 7500-4000 TCN. Nhiều làng mạc và thành phố xuất hiện, ngừời ta biết trồng trọt nhiều loại hoa màu và cây ăn trái, nuôi nhiều loại gia sức. Tục lệ thờ cúng xuất hiện.
- Thời Đồ Đồng (Chacolitic) 4000-3150 TCN. Đồng (copper) nguyên chất được xử dụng để chế tạo dụng cụ. Con người biết xây dựng nhà nhiều tầng và biết làm hầm (basement) để trú ngụ.
- Thời Đồng Thau (Bronze Age) 3150-1200 TCN. Người ta biết pha thiếc vào đồng nguyên chất để chế tạo hợp kim cứng hơn. Đồng thời chữ viết được phát minh tại Sumer chấm dứt thời tiền sử. Chữ viết của người Do Thái (Hebrew), mãi tới hơn 1000 năm sau mới xuất hiện. Cũng trong Thời Đồng Thau, những con đường giao thông qua biển Địa Trung Hải và trên bộ đã nối liền các thành phố trong vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu với nhau. Nền văn minh của Sumer (tức Babylon) đã lan rộng tới toàn vùng, nhất là tại Ai Cập và Do Thái. Điều đáng chú ý là cách đây 3400 năm (1400 TCN), ngôn ngữ của dân tộc Sumer đã trở thành một ngôn ngữ quốc tế cho vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu này. Các nhà khảo cổ đã tình cờ tìm thấy nhiều tấm đất sét ghi chữ hình nêm (cuneiform) của Babylon tại Tell Amarina trên bờ sông Nil (Ai Cập). Sau khi nghiên cứu mới biết đó là những văn kiện ngoại giao giữa vua thuộc dòng Kassite của Babylon và Pharaoh Tutankhamen của Ai Cập.
Các tài liệu này cũng đề cập tới những tranh chấp khiếu nại về các vấn đề buôn bán, triều cống, việc hôn nhân giữa hoàng gia hai nước với nhau. Đặc biệt là các tấm đất sét này còn in dấu ấn (seal) được khắc theo hình vẽ do những trục lăn tạo ra để thay cho chữ ký.
                                                              Anh tuấn sưu tầm
3 - CUỐN SÁCH ĐẦU TIÊN CỦA LOÀI NGƯỜI BẰNG  TẤM ĐẤT SÉT
Theo kết quả của những công trình khảo cổ từ đầu thế kỷ 19 đến nay, cái nôi của nền văn minh Tây Phương đã được xác nhận là vùng đồng bằng rộng lớn ở miền Cận Đông. Đất đai của vùng này rất phì nhiêu vì nó đã được tạo nên bởi đất bồi từ những con sông dài gồm có sông Nil (Ai Cập) sông Jordan (Palestine) sông Syria và nhất là hai dòng sông Euphrate và Tigris đều xuất phát từ Tiểu Á để cùng đổ vào vịnh Ba Tư. Nếu ta tô màu các miền đồng bằng phì nhiêu này trên bản đồ, ta sẽ thấy hiện lên một hình vòng cung trông giống như một cái lưỡi liềm chạy dài từ Ai Cập qua Palestine, Jerusalem, Babylon (tức Iraq và Koweit ngày nay) đến vịnh Ba tư. Các nhà khảo cổ gọi vùng ngày là Vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu Cận Đông (The Fertile Cressent of the Near-East).
Để truy tìm các di vật của nền văn minh tại vùng này, rất nhiều cuộc đào xới qui mô của các nhà khoa học ngành khảo cổ thuộc nhiều quốc tịch đã được thực hiện trong hai thế kỷ qua. Tuy nhiên, phải đợi đến cuối thế kỷ 19, do những sự tình cờ, các nhà khảo cổ đã may mắn phát giác ra những tấm đất sét phơi khô (sun-baked clay tablets) có ghi những dấu hiệu kỳ lạ.Cho tới nay, người ta đã thu lượm được hàng chục ngàn tấm đất sét phơi khô. Đa số các tấm đất sét này có cỡ trung bình khoảng 10cm x 20cm, một số ít có hình lăng trụ (prism) hoặc hình trục lăn (cyclinder). Sau nhiều chục năm nghiên cứu kiên nhẫn, các nhà khảo cổ trên khắp thế giới, nhất là tại các phân khoa khảo cổ thuộc các trường Đại Học Mỹ, Pháp, Anh, Thổ Nhĩ Kỳ. . . đã phát giác ra những tấm đất sét khô đó chính là những "cuốn sách" của dân tộc Sumerians, giống người đầu tiên định cư tại Babylon. Người Hy Lạp gọi Babylon là Mesopotamia, tức Lưỡng Hà Châu (Meso: In The Middle, Potamia: Rivers). Các nhà khảo cổ đã lập ra một môn học chuyên nghiên cứu về ngôn ngữ của dân tộc này gọi là Sumerology. Những nỗ lực của các nhà khoa học khảo cổ đã đưa đến kết quả là hầu hết những "cuốn sách" của dân tộc Sumer đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.Thoạt đầu, người Sumerians phát minh ra loại chữ tượng hình (pictographic characters) nhưng chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, loại chữ này được thay thế bằng hệ thống chữ viết ghi âm (phonetic system of writing) gồm có 18 dấu hiệu tượng trưng cho 18 âm căn bản. Các dấu hiệu này phần lớn đều có hình tam giác, góc nhọn, hình thoi nhọn đầu... trông giống như những cái nêm cối. Do đó các nhà khảo cổ gọi nó là Cuneiform, do căn ngữ La tinh "Cunei" có nghĩa là cái nêm (wedge). Tới giữa thế kỷ 20, nhiều bộ tự điển và sách dạy văn phạm về loại chữ này đã được xuất bản khiến cho công cuộc dịch thuật cả một kho tàng vĩ đại những sách cổ của dân tộc Sumer trở nên dễ dàng hơn. Nhờ đó, cánh cửa bí mật của lịch sử văn minh Tây phương đã được mở rộng. Loại chữ viết đầu tiên của dân tộc Sumer được phỏng định đã xuất hiện vào năm 3150 TCN. Đây là cái mốc quan trọng đánh dấu lịch sử nhân loại. Tất cả những gì xảy ra trước năm 3150 TCN đều được coi là Thời Tiền Sử (prehistoric)
                                                                Sưu tầm Anh Tuan          
 
 4 - Chữ viết đầu tiên của loài người do dân tộc nào phát minh
 Trong số các phát minh của dân tộc Sumer, sự phát minh ra chữ viết cuneiform phải được kể là quan trọng hơn cả. Nhờ đó nhà vua đã có thể ban ra các chỉ thị cho các viên chức, quân lính và thần dân. Các tu sĩ làm ra các bài kinh, các câu thơ, các huyền thoại lưu truyền khắp dân gian và lan sang các nước lân cận. Họ không thể tưởng tượng được những huyền thoại do họ sáng tác đã làm thay đổi bộ mặt thế giới một các sâu rộng cho tới ngày nay. Thí dụ như chuyện Noah đóng tàu lớn để tránh nạn lụt (người Sumer gọi Noah là Nipishtim). Huyền thoại về Đấng Cứu Thế Tammuz (Tammuz, The Savior) người Do Thái dịch ra là Messiah từ thiên niên kỷ thứ hai TCN. Năm 332 TCN, Alexander the Great chinh phục toàn vùng Cận Đông, trong đó có Do Thái và Babylon mở đầu thời kỳ truyền bá văn hóa Hy Lạp (Hellenistic Period) kéo dài 180 năm từ 332 đến 152 TCN. Hầu hết mọi người Do Thái trí thức đều nói và viết tiếng Hy Lạp. Do đó,toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước đã được dịch sang tiếng Hy Lạp trong thời kỳ này. Sau này, từ giữa đến cuối thế kỷ I sau Công Nguyên, các Kinh Thánh Tân Ước đều được người Do Thái viết bằng tiếng Hy Lạp, mặc dù Chúa Jesus và các tông đồ đều không biết tiếng Hy Lạp và cũng không biết tiếng Hebrew mà chỉ nói tiếng Aramic là ngôn ngữ của người Syria. Người ta dịch chữ Messiah (Đấng Cứu Thế) ra tiếng Hy Lạp là Christos. Anh và Pháp phiên âm thành Christ. Các cha cố Tây Ban Nha sang Việt Nam truyền đạo gọi Chúa Cứu Thế là Cristo. Công Giáo Việt Nam phiên âm thành Ki-ri-xi-tô. Sau này giáo hội Công Giáo Việt Nam đã bỏ không xài danh từ Ki-ri-xi-tô nữa vì nghe nó có vẻ vừa Tây vừa dài quá nên rút gọn lại thành "Ki-tô". Xin đừng lầm "Ki Tô" phiên âm từ tiếng Tây Ban Nha CRISTO với "Gia-tô" là tiếng người Hoa phiên âm tên của JESUS. Nguời Hoa viết là "Gia Tô" nhưng phát âm thành "Giê Su" vì các vần "T" trong tiếng Việt người Hoa phát âm thành "S". Thí du: Tam Đa thành Samtor, Tam nguyên thành sám mắn, Đại tiểu thành Tài-sỉu, Tây Cống thành Sài Gòn v. v... Trên thế giới này chỉ có Đạo Kitô tức Christianity chứ không có đạo nào gọi là Đạo Giê Su hay đạo Gia Tô (never Religion of Jesus) như người Việt mình ngày xưa thường gọi sai  Kitô là huyền thoại xuất phát từ Babylon đã có từ nhiều ngàn năm trước Công Nguyên. Còn Jesus là một gã thợ mộc Do Thái, thất học mù chữ, sinh khoảng năm thứ 4 TCN, cao 6 ft, nặng 12 stones rưỡi ( đơn vị đo lường thời cổ của Do Thái ) tương đương 1 mét 82 và 79 kí lô. Jesus đã được thần thánh hóa bằng huyền thoại
                                                                            Anh tuan sưu tầm
 
5 – Thành phố đầu tiên của loài người
 Thành phố đầu tiên của loài người
Sơ lược lịch sử của dân tộc Sumer và địa danh Babylon.
Theo sự tường thuật của nhà bác học H. Mellersh, tác giả nhiều cuốn sách giá trị đặc sắc về lịch sử và khảo cổ, trong đó có Archaeological Section của bộ Great Encyclopedic Dictionary và cuốn Sumer and Babylon (NY Crowell 1965), xin tóm lược như sau:
Babylon là một thành phố cổ mà trước đó nhiều thế kỷ nó được gọi là Sumer. Babylon nằm trên vùng châu thổ tả ngạn sông Euphrate và ở vị trí gần nhất với sông Tigris, ngang vĩ tuyến 30. Hàng chục ngàn năm về trước, giống người khôn ngoan như chúng ta hiện nay (homo sapiens) đã biết chăn nuôi và trồng trọt. Khoảng 6000 năm TCN, những người "homo sapiens" từ các vùng đồi núi tràn xuống vùng châu thổ phì nhiêu định cư. Cuộc sống định cư là nguồn gốc phát sinh nền văn minh. Danh từ Civilization do căn ngữ Latin "Civis" có nghĩa là dân cư (citizen). Cuộc sống định cư muốn được ổn định phải có tổ chức và sự kiểm soát nên đã nảy sinh ra chính quyền (government) và chấm dứt thời kỳ bộ lạc.
Luật pháp và tục lệ phát triển. Hai loại người chiếm ưu thế trong xã hội này là vua quan và tu sĩ. Hàng loạt đô thị mọc lên trên miền châu thổ của hai con sông Euphrate và Tigris là Larsa, Lagash, Erech Isin, Ur và Eridu. Thành phố Ur và Eridu nằm về phía Nam của Babylon và gần giáp biên giới Kuwati ngày nay. Ur nổi tiếng trong thế giới Kitô Giáo, thậm chí Giáo Hoàng Jean Paul II cũng dự tính đi thăm thành phố này trong năm 2000.
Sách Sáng Thế Ký (Genesis) là cuốn sách đầu tiên của bộ Thánh Kinh Cựu Ước đã nói tới thành phố Ur như sau : "Thành phố Ur là nơi sinh trưởng của Terah. Terah dẫn con trai là Abraham và con dâu (vợ Abraham) là Sarah đi từ UR đến miền đất Canaan để lập quốc Do Thái". Sau này các nhà học giả nghiên cứu các huyền thoại của dân Sumer đã phát giác ra là Thánh Kinh Cựu Ước đã chép lại gần nguyên văn câu chuyện thần thoại ở Babylon. Chuyện kể rằng : Vị Thần Đất ở thành phố Ur là Thần Terah sinh ra nam thần Abarama và nữ thần Sarai . Sau lớn lên thần Abarama đã lấy em gái mình làm vợ... giống như Kinh Thánh Cựu Ước như đã trích ở trên.
Vì lý do những chuyện thần thoại của Babylon đã được truyền bá từ xa xưa trong khắp vùng Cận đông và vùng Địa Trung Hải nên tiếng La tinh từ xưa đã du nhập tên vị thần Đất "TERAH" của Babylon làm nguyên ngữ của chữ "TERRA" nghĩa là Đất. Sau đó đến lượt Pháp ngữ mượn tiếng Terra của Latinh làm căn ngữ cho chữ "LA TERRE" cũng nghĩa là Đất. Chữ "Ur" theo tiếng Sumer có nghĩa là Ánh Sáng (Light) cũng tương tự như người Pháp gọi Paris là "Kinh Thành Ánh Sáng" vậy. Khám phá này cho thấy Abraham đã từng được coi là tổ phụ của các dân tộc Do Thái và Ả Rập, đồng thời cũng là ông tổ của các đạo thờ Chúa (trong đó có Công Giáo Việt Nam) không phải là nhân vật có thật mà chỉ là nhân vật thần thoại của Babylon.
Người Babylon biết nung gạch và chế ra hồ để xây nhiều ngôi đền theo hình tháp có đáy hình tròn rất lớn. Họ xây những đường đi bậc thang chung quanh tháp theo hình xoắn ốc. Trên đỉnh tháp là một ngôi đền nhỏ. Loại đền thờ hình tháp này gọi là Ziggurat. Có nhiều tháp rất cao, tới cả 100 mét. Đây là nguồn cảm hứng cho người Do Thái viết chuyện tháp Babel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Người Babylon tưởng tượng cứ xây tháp thật cao sẽ có lúc đụng tới trời. Họ tin Babylon là cái cổng của trời vì chữ Babylon được cấu tạo bởi hai chữ Bab là trời (god) và ili là cái cổng (gate). Babylon chính là Gate of God (Cổng trời).
Vào năm 1917, nhà khảo cổ nổi tiếng người Anh là Sir Leonard Wooley tổ chức một cuộc khai quật thành phố Ur và ông rất ngạc nhiên đã khám phá ra nhiều mồ chôn tập thể. Ngôi mộ lớn nhất là mộ nữ hoàng Shubad. Trong mộ có một cái hang rộng với những bộ xương người nằm ngay ngắn thành nhiều hàng với đầy đủ dấu tích của quần áo, nữ trang, yên ngựa và vũ khí. Bên dưới cái hang này là một con đường dốc dẫn xuống một cái hang hình vuông rộng lớn hơn, tại đó có mộ của nữ hoàng. Dọc đường đi có những bộ xương của một đàn bò (oxen) và chung quanh mộ nữ hoàng là những bộ xương của các nhạc sĩ vì bên cạnh họ có những cây đàn hạc (harps). Tất cả đều nằm ngay ngắn thứ tự chứng tỏ không hề có một sự phản kháng nào. Bên cạnh mỗi bộ xương có một cái tách chứng tỏ họ đã uống thuốc ngủ hoặc thuốc an thần để đi vào kiếp sau với nữ hoàng một cách êm ái.
Thành phố Ur được xây cất vào khoảng năm 5000 TCN ( đọc sách dẫn chiếu tới đây, nơi trang 16-18, kẻ viết bài này chợt liên tưởng đến vụ tự sát tập thể của những người thuộc giáo phái "Adventist" Cổng Trời ở San Diego cách đây mấy năm. Thật không ngờ tâm linh của những người Kitô Giáo đương thời của chúng ta chẳng khác gì tâm linh của những người sơ khai (primitive) ở Ur cách đây trên 7000 năm!) .Từ thời đó, người Babylon biết khai thác mỏ lấy đồng và thiếc). Họ biết pha 10% thiếc vào đồng nấu chảy để hòa với nhau thành hợp kim gọi là thau để đúc thành các vật dụng cứng như lưỡi cày, vũ khí, mũi tên, bánh xe.
Họ là những người đã chế ra bánh xe và từ đó tạo ra những toa xe (wagon) hoặc xe chở người do ngựa hoặc bò kéo. Vàng được dùng làm nữ trang và thiếc được dùng để làm các tượng thần.
Mỗi thành phố là một quốc gia đô thị (giống như Quốc gia Đô thị Vatican = Stato Citta del Vaticano) và thường hay có chiến tranh với nhau.( giống như quân của giáo hoàng kéo đến tấn công quốc gia đô thị Florence, quê hương của nhà danh họa Michel Angelo vào thế kỷ 16 tàn sát trên 3000 người dân tại đây). Với những phát minh về bánh xe và thau, họ đã làm cho ngành giao thông thương mại phát triển. Với lưỡi cày cứng, họ làm cho đồng ruộng được cày sâu nên hoa màu tươi tốt hơn. Nhưng đồng thời với những vũ khí cải tiến, chiến tranh giữa họ với nhau cũng đẩm máu và tàn phá ghê gớm hơn. Sau đây là một trích đọan rút ra từ một trang báo National Geographic Magazine phù hợp với nội dung của các phần đã trình bày :
(An awsome record of human achievement defines the history of Mesopotamia - the Land between the rivers. Traditional birthplace of man for Jews, Christians and Muslim. It provided seed and soil for nearly all that is good and evil in modern life, litterature, medicine and science, despotism and warfare. Unprotected by natural barrier at the mercy of unpredictable rivers, the region endured and profited from legion of invaders and migrants whose blood mingles with that today Iraq. Babylon had been the capital more than a thousand years when it was shacked by the Assyrians in 689 B.C., under Nebuchadnezza, it rose phoenix-like to become the greatest city in the world. Traditional birthplace of Abraham, the Royal City of Ur was abandoned in the fourth century B.C. after the Euphrate changed course , leaving UR enclosed by desert. Artifacts excavated at Eridu date from before 5,000 B.C. fixing it as Mesopotamia 's oldest city. IRAQ' S ANCIENT HERITAGE. National Geographic Magazine May- 1991)
                                                                             Anh Tuan sưu tâm
 
 
 6 - TẠI SAO Ở MỸ BÃI BỎ CHẾ ĐỘ NÔ LỆ
hiện nay,vào thế kỷ 17-18 .do tranh dành lôi kéo,và chiến tranh,về quyền lợi của càc nước như,Anh,Pháp,Nga ,Tây Ban Nha,Bồ đào Nha ,Lúc này những người gốc Âu Châu ,đã bước vào thế hệ thứ 4và5,Kể cả những người nô lệ,cũng bước vào thế hệ thứ 4và5.Ở thời kỳ này là thơì kỳ tôn giáo trị mọi chính sách cai trị đều ứng dụng ,từ sách kinh thánh do VATICAN ban hành ,Nhưng ở tại Mỹ lúc đó cũng có một nền văn minh phát triển rất mạnh ,song song theo đó cũng là một tôn giáo và lịch , do cọ sát những nền văn hoá ,nói khác cọ sát giữa các tôn giáo ,từ chỗ nàynhững con người thế hệ thứ 4-5 ,những giáo điều và niềm tin của họ sẽ chạm đến chõ tối cao của hệ thần kinh suy nghĩ.một mặt lại đối diện với chiến tranh ,nên giới lãnh đạo,cũng thuộc thế hệ này ,đưa ra những giải pháp khôn n        goan hơn ,đứng trên con người để hô hào ,bình đẳng ,nhân quyền,xóa bỏ chế độ nô lệ. Mà không đứng trên điều lệ của kinh thánh.Hai đảng thành công nhất là Cộng Hoà và Dân chủ ,từ then chốt này mà Tất cả thuộc địa của các nước mạnh ở Âu Châu đều nằm ở Châu Mỹ tức là Mỹ các cuộc chiến tranh chấm dứt,những người nô lệ có tên gọi Công Dân <Citizen> mà không gọi là nô lệ nữa Slave .Ngày nay nước mỹ là một cường quốc theo thẻ chế Dân Chủ, Cộng Hoà và có tên là United State of America <USA> 
                               Anh tuấn
 
7 – Mục đích của các tôn giáo
Chúng ta hãy ngồi một mình  bằng con đường lịch sử thế giới, đền các quốc gia, hãy nhìn ,hành vi của nhũng người có chức sắc của  các tôn giáo,mục đích của các tôn giáo muốn gì ? chính bản thân ,các chức sắc muốn gì,? có phải họ muốn có nhiều tín đồ không?. Chắc chắn đây là câu trả  lời đúng nhất
Nhiều tín đồ để làm gì ? .chúng ta tìm hiểu xem
Các tôn giáo thành công đều không có biên giới , giới tuyến Lý thuyết lịch sử nghi lễ,hù doạ,răn đe,thưởng phạt ban, phong tặngv.v.. rất hấp dẫn  không có sơ hở, Từ thông minh,trí thức, hay thường nhân ,người có nhiều kinh nghiệm ,trẻ em hay phụ nữ .dù vô tình hay cố ý,khi bị du nhập lý thuyết vaò đầu ,thì mình trở thành tín đồ,bảo vệ lý thuyết 
     Ngược dòng lịch sử từ đầu thế kỷ 19 về trước , vào đầu thế kỷ 18 tại Mỹ bãi bỏ chế độ nô lệ, từ đây mới có chữ nhân quyền,ở pháp vào thời kỳ này,cũng xẩy ra cuộc cách mạng 1789 , danh từ xã hội, cộng hoà ,mới có ,vào những thế kỷ này ,con người trên thế giới đắm chìm trong nô lệ,chỉ giảm và lạt bớt sau chiến tranh thứ 1 .Để quản lý các thuộc địa lý thuyết tôn cực kỳ hay,.Vua quan của các nước này thì sao?? ,lịch sử trả lời chúng ta
Tất cả các tôn giáo trè em và phụ nữ đều bị lường gạt......không được bảo đảm
Các nước tôn giáo là các nước,giai cấp và phân chia giai cấp ,thế giới vào thế kỷ 17-18 ,là thời kỳ cực thịnh của các tôn giạo ,khi các nước nhỏ nằm trong hệ thống thuộc địa của càc nước mạnh ,thì sự quản lý ,cai trị là tôn giáo ,ở nước nhỏ ngoài tầng lớp quan lại ,vua chúa ,là người nô lệ ,vì thời kỳ đó chưa có danh từ dân chúng chữ dân chúng mai tới đầu thế kỷ 19 mới có            
                                                    Anh tuấn
8 – Sự tiến hoá của loài người
 
Khoa học ngày nay đã chứng minh  loài người hiện hữu trên trái đất khoảng 50 triệu năm ,họ sống từng nhóm chủ yếu săn hái lượm để sống ,đễ đối phó với thiên nhiên và thú dữ ,người khoẻ mạnh nhất sẽ là trưởng nhóm ,sau một thời gian do nam nữ quan hệ với nhau ,nên sinh ra đông người ,tất cả số người này  vẫn sống theo những sắp đặt người mạnh nhất ,nhưng người mạnh nhất cũng già yếu hoặc bị tai nạn ,néu người trưởng nhóm có con lớn thường là cũng khoẻ mạnh do zen di truyền ,lên thay .nhưng nếu không có ,hoặc có nhiều con lớn , lúc này phát sinh có nhiều trưởng nhóm ,trường hợp không con hoặc con quá nhỏ ,thi những ngưới anh em với ba hoặc mẹ sẽ làm làm trưởng nhóm, từ đây có sự phân hoá có những người trong nhóm sẽ tách ra di chuyển đến nơi khác thành lập nhóm mới , do những người này sinh sống bằng săn hái lượm ,nên tùy thuộc vào thời tiết ,và khu rừng sinh sống,cũng như mọi loài động vật khác  ,loài người cũng vẫn phải sống dọc hai bên bờ sông ,suối có nước ngọt ,như sông Nile,Amazon, mêkong, dương tử vvv.....
 
Khi loài người biết xử dụng lửa
 
Ở trái đất mọi thứ đều có sẵn ,như ,nước ,lửa, đá ,sắt,đồng,cây ,hoa quả v.v..con người phải biết caćh khai thác và xử dụng ,Loài người từ khi biêt́ xử dụng ,giữ lửa và khai thác lửa .thì mới định cưđược,vì lửa sẽ giúp con người ấm áp khi bị lạnh ,săn đuổi các loài thú dữ to lớn hơn mình ,và ăn đồ nướng chín ,đất dùng lửa làm chín đi sẽ không sợ nước , để làm ra nồi đất ,bình đựng nước ,làm những cục gạch .vv.v.v .Từ những điểm này , mà con người sẽ định cư ở bất cứ nơi nào ,nhưng loài người luôn chọn ở những vùng có nhiều cây và nước ngọt,đồng thời cũng có nhiều đất dẻo <đất sét>. Tức dọc theo theo những dòng sông ,các loài động vật khác cũng vậy , Như vậy loài người đã có dồi dào thức ăn, thức ăn,cây củi, hoa,lá trái cây đất sét v.v. .Từ những điểm nhỏ này ,tuổi thọ cao hơn,cha mẹ đủ sức nuôi các con mình đủ lớn và tự s̉́ống được .sau một thời gian ,sẽ gia tăng dân số ,một số sẽ di dời, một số sẽ tranh dành , nhưng thời gian lâu nữa ,dân số lại gia tăng ,loaì người ,biết làm nhà ,nuôi động vật , làm những ký hiệu ,để đánh dấu những vùng đất ,lãnh thổ của mình ,.Từ đây nổ ra chiến tranh giữa các bộ lạc .các thế hệ sau thừa hưởng những kinh nghiệm của thế hệ trước ,Từ đây chiến tranh càng lớn lên .ký hiệu lại nhiều hơn ,nên con người sẽ khắc lên đá ,lên đất nung, lên lá ,lên cây .v.v..Ngành ḥoc khám phá khảo cổ ,phát hiện trên vách trong các hang đông những hình ảnh người hay các con thú ,hoặc nhiều ký hiệu được khắc sâu vào miếng đất nung được coi như chữ tượng hình đầu tiên của loài người
                                                                         Anh Tuấn
9 – Nguồn gốc của tôn giáo
 
Tôn giáo xây dựng trên nền mong muốn tương lai của con người vươn tới,cộng thêm hù doạ,luật lệ,thưởng, phạt,và giáo dục.
SỰ LIÊN HỆ CỦA THỜI GIAN VÀ CUỘC SỐNG
 
Tất cả mọi thứ từ vũ trụ,các hành tinh,con ngưới,động thực vật,các sinh vật,,tĩnh vật,đều tựa vào nền thoì gian mà hiện hữu.Vậy thời gian là gì ,mà mọi sự hiện hữu đều phải tựa vào thời gian, để hiểu chúng ta chia thời gian ra như sau : Tương lai ; Hiện tại;Quá khứ; Lịch sử
A - TƯƠNG LAI 
Con người mới sinh ra,khi trưởng thành ,nhờ học hỏi ,dậy dỗ ,giáo dục ,hoặc theo truyền thống ,mà hình thành ước mơ tương lai của mình,nhưng cũng có những người tựa vào truyền thống mà tưởng tượng ra một tương lai để sống vv....Như vậy tạm hiểu tương lai là 1 ẩn số ,là bí mật,là số mạng,là chết, là đầu thai,là hoá kiếp,là linh hồn lìa khỏi xác,là hoá bướm,rất nhiều tương lai mà các tôn giáo đã hứa hẹn v.v......Nói chung tương lai là lý trí của con người không thể vươn tới
 Tương lai của vũ trụ thì sao hiện tại chưa có câu trả lời kể cả các tôn giáo
  Tương lai của trái đất chúng sinh sống thì sao.Hiện tại khoa học khảo sát nhờ các vệ tinh ,mà khám phá ra ra tầng Ôzon đã bị lủng nên nhiệt độ của trái đất sẽ tăng, càc tảng băng ở 2 cực sẽ tan thêm,làm mực nước biển cao thêm 20cm ngày gần đây,làm cho nhiều vùng trên các đại lục,sẽ bí ngập lụt .Đây cũng chỉ là lời tiên đoán tiên tri .Nhưng tương lai của vũ trụ,ảnh hưởng đến thái dương hệ của chúng ta, nó làm cho sự việc kể trên sẽ không xẩy ra,mà xẩy ra sau nhiều thế hệ loài người thì sao.Chính thế tương lai ,là một ẩn số ,là bí mật
B -  HIỆN TẠI
Là nhìn thấy,nghe ngóng được,chạm vào được.Tức con người nhận thức bằng Ngũ Quan
C -   QUÁ KHỨ
Ngay nay một con người,sinh ra phải làm khai sinh và đặt tên, người chết phải làm khai tử ,đến tuổi ấn định phải làm CMND co chụp hình để nhận dạng,Ngoài những giấy tờ cá nhân phải giữ,mỗi tỉnh  đều phải có kho lưu trữ những tàng thư này
      Các triều đại đã qua ,dựa vào đền đài, lăng tẩm, hình vẽ,bia đá,những tượng tạc bằng đá ,bằng cây,đều được tôn tạo ,bảo trì,Để hình dung ra quá khứ.v.v...
       Ngành khoa học khảo cổ ,khám phá ,định tuổi,mới biết được trái đất của chúng ta ,cách đây trên 100 triệu năm là thời kỳ khủng Long,một loài vật to lớn ,vì người ta ,đã đào bới được những bộ xương còn đầy đủ của con khủng đã hoá đá,,cùng rất nhiều ,sinh vật hoá đá khác,Đã tuyệt chủng trên trái đất .Một số bộ xương hình người,nhưng ấn tượng nhất ,là bộ xương người ,có xương sọ giống như chúng ta ngày nay,cách đây khoảng 160 ngàn năm, như vậy con người thông minh mới xuất hiện khoảng 160 ngàn năm.Do thử zen của xương sọ mà khoa học mới khẳng định như vậy
D - LỊCH SỬ 
Tất cả mọi thứ ,từ vũ trụ đến thái dương hệ ,các hành tinh,ngay cả trái đất của chúng ta,con người,sinh,động, thực vật,kể cả tế bào ,vi trùng.v.v..Những đền đài,bia đá,những hình vẽ trong các hang đá,các trống đồng đào bới được ở VN ,hoa văn trên những miếng đất nung,v.v...Ngành khoa học khảo cổ,nghiên cứu ,khám phá,định tuổi ,đều chụp hình,quay phim,ghi chép lại,thống kê lại,để các thế hệ sau dựa vào đó tiếp nối.Những công việc này  gọi là lịch sử 
                                                                                             Anh Tuấn
 
 
 

 

Lăng Ông Bà Chiểu quận Bình Thạnh TPHCM 2010-09-20

 
Lăng Lê Văn Duyệt còn goi là Lăng Ông ,vị trí thuộc Q. Bình Thạnh,ngay góc Phan Đăng Lưu Đinh Tiên Hoàng,cổng vào đường Phan Đăng Lưu.Tả Quân Lê văn Duyệt 1764-1832 ,là một hoạn quan ,theo Nguyễn Ánh<sau này là vua Gia Long>từ năm 16 Tuổi,trong giai đoạn bị tây Sơn truy đuổi ráo riết.có tài dụng binh lại dũng cảm,lê văn Duyệt lập nhiều chiến công Gia LOng tin Cẩn giao chức tổng trấn Gia Định.Tuy là họan quan nhưng được Gia Long ban cho 1 cung nữ làm phu nhân.sau khi ông mất ,con nuôi là Lê văn Khôi tạo loạn mộ ông bị san bằng chôn 1 bia đá bị xích có khắc dòng chữ<chỗ tên hoạn quan Lê văn Duyệtchịu tội>, đến đời Thiệu Trị bản án mới hủy
       Bố cục lăng gôm nhà bia,lăng mộ, điện thờ. Khu mô có 2 ngôi ,mộ Tả quân Lê văn Duyệt , kế bên là phu nhân  còn gọi là mộ song hồn ,nổi bật là bôn cây cột gỗ chạm rồng  ở chính điện  đường nét sắc xảo.Điện thờ chính mới xây dựng lại năm 1971-1973 .trước giải phóng <1975>,người đến Lăng Ông đông đảo ,mục đích là xin xâm .Muốn xin xâm  trước tiên phải giũ quẻ âm dương với 2 đồng xu để xem thần có đồng ý không.Gieo quẻ được rồi thì xin xâm,lắc ống xăm có 100 thẻ xăm cho đến khi một thẻ văng ra, đem thẻ đến chỗ giải ,dựa vào chữ ghi trên thẻ , bài gỉải là câu thơ lục bát ,hoặc thơ đường kế bên dịch ra quốc ngữ , còn lời bàn thì có rất nhiều thầy ngôì chung quanh và ở khu công viên của lăng .thầy nào bàn trúng nhiều tì có nhiều khách ,lại nhiều tiền thưởng .Sau ngày giải phóng những tệ nạn này đã chấm dứt .
      Ngày nay lăng đã sửa sang rất nhiều xây thêm một điện thờ mới .năm 2007 có người đúc tặng tượng Lê Văn Duyệt bằng Đồng nặng 3 tấn ,đặt ở giữa điện thờ mới xây,hằng năm tại đây tổ chức lễ hội ,với các cuộc tế lễ linh đình và nhiều trò chơi dân gian,chọi gà chơi cờ tương...v..v
                                                            Anh tuan
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
                                                                                                                          
 
 
 
 
 
 
 
 
   
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét