Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2013

GIA PHẢ HỌ TRẦN Ở KỶ LAM *Tác giả Trần văn Đường

GIA PHẢ HỌ TRẦN Ở KỲ LAM

TÁC GIẢ TRẦN VĂN ĐƯỜNG

 

clip_image002

LỜI TỰA

clip_image004Dòng họ Trần tại làng Kỳ Lam, tổng Đa Hòa, nay là xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam có một thanh thế khá lớn đối với địa phương, là điều đáng mừng vui trong tộc họ. Việc dựng gia phả đã có từ nhiều đời trước, nhưng lịch sử càng ngày càng nhiều sự kiện, dòng họ mỗi lúc mỗi đổi thay thêm bớt, những văn bản thời xưa là rất quý nhưng đời sau xem ra không hiểu hết; không bổ sung, không tu chỉnh cho phù hợp e sẽ nhọc nhằn cho cháu con.

Nỗi trăn trở của những người lớn tuổi mang nguyện vọng, muốn báo đáp tròn vẹn hiếu tình với tiên tổ, với những bậc sanh thành; ngoài việc xây dựng từ đường, tôn tạo Tông miếu, mồ mả; có gia phả thể hiện đủ giềng mối thế thứ, tông chi, nội thân ngoại thích là rất cần thiết.

Qua một thời gian dài cùng nhau bàn bạc việc ghi chép phả nhưng gặp nhiều khó khăn trong nghiên cứu, trong kỹ thuật để thỏa đáng yêu cầu thời đại nên chưa có thể biên soạn. Nếu mọi việc thuận lợi, bộ gia phả dòng họ chúng ta được soạn thảo theo yêu cầu cao từ gia tộc, cộng thêm sở trường của chuyên gia gia phả dòng họ; chúng ta hy vọng họ Trần làng Kỳ Lam, tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn có được một tác phẩm văn hóa dòng họ phong phú và hoàn chỉnh với nội dung như sau.

Bộ gia phả biên soạn cho phái nhất, chi cao tổ Trần Phú Lập gồm các nội dung như sau:

Phần thứ nhất: Tiếp theo Lời tựa, phân trần cùng Tông tộc những lý do phải dựng lại bộ phả. Phả ký, mục chính của phần thứ nhất, ghi lại hành trình của đức Tổ Tiền hiền họ Trần đến tạo dựng sơ cơ tại làng Kỳ Lam, tổng quan dòng họ Trần ta hình thành và phát triển trải qua 16 đời sanh hạ nơi đây. Xứ sở Kỳ Lam, chiếc nôi con cháu họ Trần lớn lên cũng được ghi nhận như một duyên nợ, đầy nghĩa tình, được gắn bó trong đời người họ Trần dù đã lưu lạc nơi đâu.

Phần thứ hai: Tông đồ, vẽ theo sơ đồ tổ chức; chỉ ghi các tổ ông, không ghi các tổ tỷ, thể hiện từng đời sanh hạ. Các vị cùng đời thể hiện trên một thanh khung dàn ngang; sự quan hệ nối kết bằng một đường nối. Từ đời thứ I đến đời thứ IV thể hiện tông đồ Tiền hiền – Hậu hiền Trần tộc, đời thứ V đến đời thứ IX là các cao tổ chi ngài Lập.

Phần thứ ba: Phả hệ, chi tiết từng thành viên, gia cảnh, thân thế sự nghiệp, hình ảnh, con cái và các quan hệ thân tộc, xã hội, sống – chết, ở đâu, mồ mả … Tư liệu tổng hợp được sẽ đưa vào, bằng những thông tin do gia đình cung cấp; nếu không, có thể để những khoảng trắng để bổ sung sau. Muốn xem chi tiết phải vào mục lục để đối chiếu, vì phần nầy chiếm hầu hết dung lượng sách.

Phần thứ tư: Phần ngoại phả, đưa những vấn đề có liên quan gia tộc Trần tộc Kỳ Lam, ngày húy kỵ của tộc, chạp mả, xuân thu quí tế, giỗ tại một số gia đình …

Trong khả năng tổng hợp và sự thống nhất của các phái, bộ gia phả chỉ soạn cho phái nhất, chi cao tổ Trần Phú Lập; các chi phái khác sẽ tuần tự thống nhất, rút kinh nghiệm dựng sau để Trần Đại Tộc được đầy đủ, mỗi phái, mỗi chi đều có.

Nhưng cuối cùng, tiếc vì kinh phí có hạn các anh em tại Kỳ Lam tự biên soạn, mặc dù không như yêu cầu trên nhưng cũng đã hoàn thành xong bằng chữ quốc ngữ, những mong đợi của tộc Trần ta cũng đã lấy làm mãm nguyện và vui mừng.

Sở dĩ việc đã không làm mà còn ghi lại là vì khát khao của riêng tôi, vì phước của tổ tiên đã để lại cho dòng họ như thế nào con cháu đời sau chưa có dịp biết chưa có nơi ghi lại, vì những điều tốt đẹp của gia tộc trong bộ gia phả vừa soạn không có, vì lời nhắc nhở cần ghi của thân sanh tôi lúc sanh tiền tôi không cùng anh em bàn được. Mong rằng khi có cơ duyên ta cùng nhau viết tiếp với nhiều chi tiết thống nhất hệ thống như trên, trọn vẹn hơn.

Trước mắt, tôi viết tập “NGƯỜI HỌ TRẦN KỲ LAM” nầy bổ sung cho những gì còn thiếu trong phần Phả Ký, nội dung thứ nhất vừa giới thiệu, phần nầy sẽ vẽ ra toàn cảnh thân thế họ nhà ta mười sáu đời có mặt trên xứ sở Kỳ Lam từ khi còn thuộc phủ Triệu Phong, trấn Thuận Hóa cho đến nay là huyện Điện Bàn của tỉnh Quảng Nam.

Dòng họ Trần ta vinh quang cũng từng có, thăng trầm cũng lắm phen, nhưng niềm tự hào về huyết thống không bao giờ suy sụp, gương hiếu đạo luôn giương cao, đó là niềm vui vô hạn, tổ tiên đang ngậm cười nơi tiên cảnh.

Gìn giữ giềng mối, phát huy tốt đẹp trong họ tộc là trách nhiệm, là nghĩa cữ cao đẹp mà con cháu họ Trần chúng ta gánh vác.

Thay cho lời kết ta cùng nhau suy gẫm điều người xưa còn để lại:

“Khí phách tồn thiên địa – Tinh thần tại tử tôn”

Mùa Xuân Năm Quý Tỵ (2013)

Nội tôn đời thứ XIII

Trần Văn Hòa tự Hoành

Cẩn bút

PHẢ KÝ BẢN CHỮ NHO

PHIÊN ÂM

Điện Bàn Phủ, Đa Hòa Tổng, Kỳ Lam xã, Trần tộc bổn phái tự tôn đẳng.

Cung duy Trần Đại tộc, Thủy tổ Tiền Hiền Bắc địa sơ cơ, Dĩnh Xuyên cựu quận, Nam thiên tỷ ấp Thuận Hóa kinh kỳ, Mộc Hãn, Hương Trà huyện lỵ, Mộc Hàn xã cư.

Lê Triều Hồng Đức đáo du Quảng Nam, Điện Bàn phủ lý khai phá thảo lai tịch kỳ điền thổ hiện đắc công tư lục bách dư mẫu lưu truyền chí tư kinh thập ngũ thế Kỳ Lam xã hiện.

Điện Bàn Phủ, Đa Hòa Tổng, Kỳ Lam xã, Trần tộc bổn phái tự tôn đẳng.

Phụng Hội đồng tu lập thế thứ phổ hệ sự diên bổn phái tùng tiền hữu cấu lập tự đường, nhất tòa phụng sự lịch đại tôn tổ, tồn tứ thân cao tằng tổ khảo các các, vọng thiết tại tư gia phụng sự thế giũ gián tín tình giũ sơ bất năng liên hiệp, gian hữu vi bần sở lụy hương hỏa hàn yên, hoặc hữu kế tự vô nhơn, mộ phần thất lạc. Thiết tưởng nhơn sanh hồ tổ, vật bổn hồ thiên liên lạc chi tình bất cố phấn luôn chi tự giũ khuy bỉ tứ hải nhạ giai huynh, huống nhất đường nhẫn vong. Nãi tổ ngôn niệm cập thử khởi ngôn niệm, điềm nhiên nhiếp thử nhân thời canh cải tùy sự tiện nghi, nhân bá đường tự Vũ nguyện cúng vi hội chi đường tiền tự gia thiên kế lập phụng tiên chi chánh tẩm, thứ dĩ đôn hiệp kính đồng ái chi sơ tâm nhi doãn phó thận chung chi nghĩa vụ tư tắc thiên cấu sự thành hội đồng định sở nãi lục tu. Thế thứ phổ hệ thượng tự Thỉ tổ Tiền hiền Hậu hiền thế tổ hạ chí cao tằng tổ khảo, cập lịch đợi tổ bá, tổ thúc, tổ cô vô hậu thất tự chư linh khảo tỷ tánh dong tự hiệu quân chiếu thế thứ kế trần du tả tịnh tự hậu . phái nội bất cầu hà hạn nhơn quá thế tam niên mãn phục quân đắc chiếu thứ khiêu nhập tự đường phụng sự tịnh gián thế thường niên. Tự tôn hà hệ sanh tử hôn thú tất do bảo phái nhơn trình cáo chiếu thế thứ thế thứ phổ hệ niên ngoạt tánh danh quán chỉ tục biên lưu chiếu thứ miễn sai lạc tư hội tri phổ hệ tờ.

Đinh Mùi niên, nhị ngoạt sơ nhất nhựt, Đà Nẵng, Đông Lợi, An Khê khu phố phụng sao phổ hệ nhất bổn, tự tôn Trần Văn Học

clip_image006

Bản chữ Nho phả ký có âm Việt ngữ

HỌ TRẦN TỪ NGUỒN CỘI

Trần tộc nói chung, tại các nơi trên thế giới đều có một nguồn gốc nguyên thủy là Dĩnh Xuyên quận, ngày nay là tỉnh Hà Nam, đã thuộc đất của Trung Hoa. Nguồn gốc họ tộc Việt Nam phần lớn xuất phát từ dòng Bách Việt, từng sanh sống phía Nam bờ sông Dương Tử, qua những biến chuyển lịch sử, dòng Bách Việt lan tỏa đi nhiều nơi, đầu tiên do thế lực phía Bắc của Trung Nguyên, sau đó dòng người Hoa Hạ lai giống lấn chiếm đồng hóa, xua đuổi. Từ đó nhiều dòng họ chạy về phía Nam hoặc vượt biển về phía Đông. Sau nầy có những nhóm người gốc người Bách Việt ở rãi rác trên địa cầu sau khi tổ tiên họ đã có quốc tịch là do bị đày, trốn nạn nước nạn nhà, trôi dạt quan hà, lâu quá thành lạc tông thất tích.

Theo tài liệu thu thập của nhà sưu tập Dược sĩ Bùi Văn Quế; năm 50.000 trước Công nguyên giống Indonesien từ Châu Phi đến miền Trung của Việt Nam ngày nay, miền Nam Việt Nam thời đó còn chìm trong nước biển của Thái Bình Dương. Với từng nhóm ít người trên thuyền họ đổ bộ vào đất liền và lai giống cùng người bản địa, sau tràn dần về phía Bắc tại khu vực Sơn Đình Động. Năm 8.000 TCN, người Indonesien xây dựng nền văn hóa Ngưỡng Thiều. Đến năm 2975 TCN vua Thần Nông xuất hiện mở đầu kỷ nguyên phát triển dòng người Bách Việt, dựa trên ngôn ngữ thì Thần Nông không phải là người thuộc các dòng người Trung Quốc như hiện nay. Năm 2950 TCN, trên châu thổ sông Hoàng Hà có dân tộc Miêu, người Mông Cổ đánh đuổi chiếm, niên đại đồng thời là Hoàng Đế của Trung Quốc. Năm 2900 TCN, cháu ba đời vua Thần Nông là Đế Minh cai quản dòng người Bách Việt sống dọc bờ Nam sông Dương Tử. Khi tuần thú phương Nam, ông gặp con gái bà Vụ Tiên là Long Nữ Động Đình Quân, ở lại sanh Lộc Tục, mãi đến năm 2879 TCN, Kinh Dương Vương tức Lộc Tục, con vua Đế Minh lập nước Xích Quỹ đồng niên đại Thiếu Hạo, nơi bắt đầu phát triển nòi giống người Việt chúng ta. Năm 2840 TCN, có Lạc Long Quân kết duyên cùng con gái của Đế Lai là Âu Cơ, để lại cho hậu thế 4000 năm sau một đàn con huyền thoại nở từ trăm trứng một bầu thai. Lạc Long Quân quây quần cùng hàng trăm bộ tộc giữa thời đại Trung Hoa là Xuyên Húc. Năm 2800 TCN, niên đại Đế Cốc thời kỳ vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ, Hùng Vương dựng nước Văn Lang, truyền nối mười tám niên đại và ta là cháu con, giống nòi, dòng họ len lỏi trong từng mãnh ghép lịch sử.

Từ lịch sử, những dòng họ chạy về phía Nam phát triển tổ nghiệp, lập quốc dựng cơ đồ mới ở một cỏi riêng, trong đó có dân tộc Việt Nam. Để tưởng nhớ quê hương nguyên sơ của cội nguồn bị cướp mất, để nhiều đời sau còn qui ước nhìn lại huyết thống đầu tiên, hoặc để nuôi mộng có ngày phục quốc … các dòng họ thường ghi theo hoặc quận, hoặc đường vốn là sơ khai quán như Kinh Triệu quận của họ Lê, Thanh Hà quận của họ Trương, Trần Lưu quận của họ Nguyễn; Giang Hạ đường của họ Huỳnh, Thái Nguyên đường của họ Võ… Có thông tin rằng quận, đường là địa chỉ tập hợp người cùng họ nơi Âm Phủ, đó là giải thích gượng ép của các thầy pháp, thầy cúng nhà chùa chưa có điều kiện nghiên cứu cạn lẽ.

Họ Trần chúng ta cũng không bước rẽ ra ngoài dòng chảy ước lệ, mang theo nơi nguyên sơ phát tích với tánh thị của mình là Dĩnh Xuyên quận Trần tộc. Bởi vậy, con cháu họ Trần mỗi khi mở đầu việc họ tộc đều dùng “Dĩnh Xuyên quận Trần Tộc”, nhất là các văn khấn, phó ý, gia phả, bài vị.

Có sách ghi rằng Thỉ Tổ họ Trầnclip_image007 có nơi phát tích là nước Trần Cổ của Bách Việt nay đã thành đất Trung Quốc. Nước Trần Cổ ở đất Dĩnh Xuyên, nay là huyện Vũ, tỉnh Hà Nam. Hậu duệ của vua Thuấn là Hồ Công Mẫn lập ra nước Trần, con cháu Hồ Công Mẫn lấy tên nước đặt cho tánh của dòng họ mình. Họ Trần khai sinh từ thuở đó. Khác với các tộc họ khác là chỉ có thể lấy họ theo tên nước nhưng họ Trần lập nước Trần để lấy họ. Xét cho cùng tộc Trần có sự khởi đầu là vua chúa của thiên hạ một cỏi.

Ngài Trần Lãm về làm tướng nhà Đinh không thân phận chưa mấy vinh vang nên phần hậu vận đời sau không ai rõ. Mãi đến lúc Tức Mặc (xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, phủ Thiên Trường) là chốn tạo dựng dương cơ của họ Trần từ ông tổ Kinh, và con cháu làm nghề đánh cá, một thời tiềm long xử thế, đợi tinh anh gia thế đủ đầy bước lên chín bệ giữ đạo trời coi sóc con dân Đại Việt.

Suốt từ năm 1225 đến năm 1400 chống Nguyên - Mông trị nước, đạo quân thần trên dưới như cha con, lòng dân như một. Một trang sử oai hùng của vua Trần chói lọi phương Bắc chẳng dám coi khinh, nhưng chẳng mấy ai vạn đợi công hầu, vận vua cũng có ngày mai một. Quyền uy chuyển đổi, Lê Quí Ly từ thời Trần Thuận Tông đã bắt đầu thao túng, sau đó giết Thuận Tông đưa Trần Thiếu Đế mới 3 tuổi lên ngôi để chờ cơ cướp lấy ngôi. Cha con Lê Quí Ly lấy thanh thế họ Hồ của Vua Nghiêu đổi là Hồ Quý Ly, lấy lòng thiên hạ để 7 năm chiếm lấy ngôi vua đổi nước thành Đại Ngu. Hồ Quí Ly tài cao nhưng đức mỏng, uy lực không đủ bị nhà Minh bắt đem về đày làm lính. Nhà hậu Trần khôi phục lại từ năm 1407 đến năm 1413. Vua bị quân Minh bắt cùng tuỳ tùng, trên đường giải về Tàu nhảy xuống biển tự vẫn. Con dân Đại Việt phải chịu lầm than cảnh nước mất 4 năm. Lê Lợi ( tức Lê Thái Tổ) dấy binh giải phóng được cho dân thoát hoạ mất nước và đã tìm hậu duệ vua Trần là Trần Cáo lên làm vua để chiêu an thiên hạ và cả nhà Minh. Công lớn của Lê Thái Tổ là mối uy quyền khống chế ngôi vua, khó lòng, Trần Cáo phải bỏ cung hoàng xuống thuyền trốn vào Nghệ An nhưng Lê Lợi đã sai người đuổi theo bắt về bức tử rồi đem chôn theo nghi thức nhà vua. Lòng dân còn mến đức họ Trần, lợi dụng lòng mến mộ ấy, nhà Minh buộc Lê Lợi đi tìm dòng họ Trần để nối ngôi. Lê Lợi cáo khống với nhà Minh là họ Trần không còn ai nữa và đã xưng vương. Trần Nguyên Đán có cháu ngoại là Nguyễn Trãi, nội là Trần Nguyên Hãn, một quan văn từng tương kế, một võ tướng thường mưu lược theo giúp Lê Thái Tổ dựng cơ đồ Lê triều. Nhưng người họ Trần thì bị trấn nước sông Lô trên đường về kinh kháng án, người họ Nguyễn do cớ Lệ Chi viên lãnh án tru di tam tộc. Sự truy sát từ thời cha con Hố Quí Ly, rồi nhà Hậu Lê, cháu con nhà Trần lưu lạc, mai danh cải tánh, có người đã đổi thành họ Đông lên vùng núi Thái Nguyên ẩn náu, sau này là họ Nông và sau chuyển thành họ Đặng.

Vận nước xoay vần, triều Trần thất thế trong nghiệt ngã của nghịch tử ngoại nhơn, đời sau nhiều phen trôi nỗi; nhưng Vương triều Trần làm nên một thời đại liệt oanh nhất lịch sử từ trước đến cả ngày nay. Vô cùng vinh hạnh ta là những con cháu mang dòng máu họ Trần, có đức tính rất riêng của họ Trần, mà cái bóng sáng chói là nghĩa tình anh em, dòng họ chứa chan, đức độ cái thế và tài ba của vua Trần Thái Tông và Đức Trần Hưng Đạo.

Vinh quang họ Trần ngàn năm con cháu không thể vô tình đánh mất, tổ chức dòng họ Trần Việt Nam hình thành; Ban chấp hành họ Trần là những người vì dòng họ tự nguyện đứng ra góp công sức để quy tụ những giọt máu Trần còn rời rạc, nhắn nhũ cùng vun bồi huyết thống sâu xa. Cả mười năm suy nghĩ, BCH họ Trần quyết định tôn ngài Trần Thừa làm Thủy tổ họ Trần Việt Nam, những bậc cao hơn qui về ngôi Viễn Tổ Lịch Đại Tông Thân. Sự nghiệp vẻ vang của Vương Triều Trần là điểm tựa tâm linh, là niềm tự hào giòng máu của người họ Trần với mọi thời đại. Tuy chưa đem những lợi ích rõ ràng cho con cháu, nhưng đã hun đúc được tình yêu cốt nhục, đã cho anh em thấm thía tiếng cội nguồn. Nhà thờ, lễ hội, những sinh hoạt mang tính về với tổ tiên luôn duy trì và BCH khắp nước rất để tâm chiếu cố đến các chi họ Trần, từ tinh thần đến vật chất. Đây là thông điệp: “Anh linh Tổ họ Trần chan hòa khắp cùng cho những giọt máu Trần mang nhiều sắc màu, hãy điểm tô bức tranh vàng son còn nhiều trang chưa đến cuối cùng”.

hc0cf

MỘC HÀN NƠI ÔNG BÀ ĐÃ DỪNG CHÂN KHAI NGHIỆP

Mộc Hàn xưa thuộc huyện Tư Vinh sau đổi là Xuân Hòa, Phú Vang, nay là làng Xuân Hòa, xã Thủy Vân, thị xã Hương Thủy, nằm phía Đông Nam thành phố Huế. Nơi đây tổ tiên họ Trần ta còn một chi họ ở lại và sanh hạ nhiều đời, thỉnh thoảng lớp tiền bối có về đó thăm. Sự kết nối huyết thống người họ Trần Kỳ Lam không thể quên nơi nầy để mất dần nguồn cội và tổ chức về thăm là việc nên làm.

clip_image008 clip_image010

clip_image011

Năm 1546 tại đây mang địa danh Kỳ Pha, năm 1753 – 1777 đổi thành làng Kỳ Lam (Ô Châu Cận Lục), Kỳ Pha rồi Kỳ Lam đã 400 năm trước các tiền hiền khẩn đất lập làng, nhưng đình làng, nhà thờ Thất Tộc Tiền Hiền và chùa xây dựng năm nào không ai biết. Đến năm 1945, làng Kỳ Lam là đại xã, phát triển lớn mạnh, dân làng giàu có nên đình làng có qui mô rất lớn. Đình có năm gian chính và hai gian hè; mỗi gian 2mét5; từ trước cửa đến sau sâu vào 15mét; 48 cột gỗ người lớn ôm không giáp. To lớn đến nỗi những gì lớn cũng đem đình ra ví von. Lối vào, đồ đạc trong đình cái gì cũng lớn; “Lớn thình thình như cái trống đình Kỳ Lam, rộng chình ình như cái đàng đình Kỳ Lam”. Đình làng thờ Bổn Cảnh Thần Hoàng, Xuân kỳ, Thu tế theo tiết Xuân phân, Thu phân; cờ biển, lễ nhạc trang nghiêm, tiệc tùng hát bội, dân làng tụ tập mở lễ hội văn hóa dân gian rất vui. Năm 1945, hưởng ứng lời kêu gọi của chính quyền Việt Minh, Ủy ban kháng chiến xã Thái Hòa (tên xã được đặt ra năm 1945 tại Kỳ Lam) đã đốt để tiêu thổ kháng chiến, ngọn lửa rần rật rồi âm ỉ cháy, khói nghi ngút ba ngày, lòng dân tiếc nuối vô cùng như vĩnh viễn chia tay một kỷ niệm lớn lên cùng họ trong đời. Cây gáo tỏa bóng cho dân làng nghỉ mát, mục đồng trải mình đầu gối lưng trâu, các hàng quán đơn sơ nhưng từng làm mát lòng người ghé lại; đã vẽ ra cảnh một vùng quê Việt Nam hiền hòa người đi phải quyến luyến, phải quay về như núm ruột chôn thời sơ sinh còn chưa đứt hẵn với mình. Cây gáo không còn, nó được đấu giá sung vào công quỹ; thần linh một thời áo đỏ áo vàng lũng lẵng đùa nhát kẻ đi qua, ma ru con lãnh lót trên cành hù mấy bà chạy sút gấu, nơi ông táo bình vôi dựa cội cổ thụ nằm lăn lóc và là nơi dân làng khề khà thuốc lá nước chè đen không còn. Từ thần đến dân thậm chí ông Táo bình vôi ai cũng tìm nơi dừng chân khác nhưng biết có được như một thời đã có hay không.

Làng Kỳ Lam còn có một ngôi chùa và một nhà thờ “Thất Tộc Tiền Hiền” nằm gần nhau. Thất Tộc Tiền Hiền có thờ tại đình làng, nhưng vẫn đặc biệt thờ riêng, chọn ngày 23 tháng 6 âm lịch hằng năm là ngày giỗ hội của thất tộc. Tộc Trần là tộc cả, kế đến là tộc Nguyễn Đình và Nguyễn Đức, tộc Huỳnh, tộc Đỗ, đặc biệt tiền hiền họ Lê lại là một vị Bà… Khi giặc Tây phát hiện chính quyền Kháng chiến Việt Minh tổ chức Hội nghị tại chùa Kỳ Lam, bọn chúng đốt chùa, đốt luôn nhà thờ Thất Tộc. Bài vị tộc nào con cháu mang về thờ tại nhà tộc trưởng, dần dà lập miếu, lập từ đường an vị, riêng bài vị Tổ họ Nguyễn Cổ khai cơ nghiệp nhưng sau không ai ở lại, bài vị Lê Bà không giữ họ khi xuất giá nên cả hai không có miếu và cũng không tế tự riêng. May mắn Hương phổ Thất Tộc Tiền Hiền Kỳ Lam lập năm Gia Long thứ VIII,

clip_image012clip_image014

ngày mùng 3 tháng 9 âm lịch (tức năm 1810) còn giữ được và do ông Nguyễn Đình Mai lưu giữ tại nhà thờ tộc để thừa sao như một di chỉ quí báu của dân làng. Qua nhiều thời kỳ, từ Kỳ Pha năm 1546 đến Kỳ Lam năm 1753; rồi ngày chính quyền Sài Gòn tại đây là xã Điện Quang, sau hình thành khu Kỳ Lam gần như tổng ngày xưa cơ quan đóng tại Kỳ Lam; có 31 xã thuộc 5 liên xã là liên xã Kỳ Tân, Liên xã Kỳ Quang (vùng trên), liên xã Kỳ Châu, liên xã Kỳ Minh (vùng giữa) và liên xã Kỳ Ngọc (vùng dưới). Liên xã Kỳ Châu gồm các xã Phong Thử, Ngọc Trâm, An Tế, Bì Nhai, Long Hội và Kỳ Lam. Đến năm 1959 thì khu hành chánh giải tán, Ngày Giải phóng 1975 lại có tên xã Điện Thái và nay là xã Điện Thọ. Quê hương Kỳ Lam, nơi bản doanh của 24 cơ quan tiền phương Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và cũng là nơi hứng hàng chục tấn bom làm dân chúng kẻ chết người bị thương, đầy những xót xa một thời ai cũng chia nhau nhận lấy.

Từ năm 1990, đất nước chuyển mình phát triển nhiều mặt, Kỳ Lam dần dần thay đổi cuộc sống, người dân bắt đầu có nhà cao cổng rộng sáng sủa, tươm tất; xe cộ rộn ràng; gái trai chưng diện đủ mode thời trang. Về mặt nhà nước đã đưa ra nhiều chương trình xây dựng nông thôn, đường quê không còn nắng bụi mưa lầy, không còn lởm chởm đá nổi vũng voi ổ trâu mà thay vào là đường nhựa nóng, khắp ngỏ ngách đều bê tông hóa sạch đẹp. Nhớ khi mới về lại quê nhà sau ngày giải phóng, cỏ cây ngỗn ngang, tre lom khom ngã bóng, mỗi khi tối đến đầu làng cuối xóm tối om, trong nhà liu hiu đèn dầu, nay điện về sáng rực nhà nhà, ngỏ ngỏ. Lại nhớ thời bao cấp nước nhà khó khăn, muốn mua một món gì cũng chờ hợp tác xã mua bán phân phối bằng cách trao đổi heo, trao đổi lúa, thậm chí chiếc vỏ xe đạp đứt triên, bể toát phải may lại bằng vải áo giáp lính Mỹ; nay quán nhỏ tiệm lớn mọc đầy, từ cái ăn ngon, cái mặc đẹp, đến các dụng cụ phục vụ cuộc sống thượng vàng hạ cám đều có. Âm vang cuộc sống tưng bừng, trường mẫu giáo, trường tiểu học, trường cấp II, trường cấp III nỡ rộ như hoa. Các ông Tú, ông Cử về làng tấp nập nên biển cờ làng chẳng còn đem ra rước. Nhân tài Kỳ Lam bay nhảy khắp nơi, có người vươn cánh bay trên đất nước ngoài; ông chủ lớn nhỏ, quan cao thấp hầu như có cả. Những người cao tuổi, người có lương hưu, kẻ có trợ cấp nhà nước, người chưa già lắm cũng có lộc của con, nếu không cũng còn ruộng vườn cây trái gieo trồng theo công nghệ mới thu hoạch khá cao, xét cho kỹ, không ai nghèo túng.

Có thể nói Kỳ Lam hiện nay là lúc thịnh vượng nhất từ trước đến nay. Đất đãi người, người chăm đất, nối chí người xưa nông thôn chẳng mấy chốc hóa thị thành.

Trở lại với họ Trần làng Kỳ Lam; có phải người họ Trần có mặt nơi đâu là vinh quang về nơi ấy! Xin lỗi chư tổ tiên các dòng họ khác đã từng là chiếc nôi ấm áp nhà họ ngoại của nhiều thế hệ họ Trần để được nói với họ Trần những gì phải nói. Ông bà nhà ta từ Thanh Hóa ra đi trong thời điểm nào, lâu quá người trước không ghi, chút dư âm còn sót lại nối truyền nửa hư nửa thực, phận hậu sanh cứ chấp nhận vậy để tiếp tục để đời. Nơi các ngài đến rõ ràng nhất khi chưa dời chân về khai mở Kỳ Lam là làng Mộc Hàn, phủ Triệu Phong, trấn Thuận Hóa địa danh có từ thời Lê Thánh Tôn, tức một làng đã đổi tên là làng Xuân Hòa, xã Thủy Vân, thị trấn Hương Thủy, thành phố Huế bây giờ. Nơi đây con cháu họ Trần làng Kỳ Lam có tìm về và xác nhận ông bà họ Trần làng Kỳ Lam từ giả Mộc Hàn từ đời thân phụ ngài TRẦN MẬU THÁI và ngài TRẦN KHÊ HẦU đại lang.

Qua mấy chặng dừng chân, trong bước đường di dân của Chúa Nguyễn vào khẩn đất Hoành Sơn làm theo như lời tiên tri của Bạch Vân cư sĩ tức Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân”. Dù rằng đất Hoành Sơn bao trùm cả một vùng Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức, Quảng Nam và Quảng Ngãi) khi Quảng Nam - Quảng Trị - Quảng Đức chưa hình thành chỉ chung một trấn nên Mộc Hàn và Kỳ Lam không khác tỉnh nhưng đèo Hải Vân ngăn núi, phá Cầu Hai cách bến nên hai quê hương của chúng ta thời kỳ đó thành xa lạ. Ngài Tiền Hiền Trần Mậu Thái và ngài Tiền Hiền Trần Khê Hầu, em ruột ngài Mậu Thái, hai anh em đến Kỳ Lam đem sức trai khai khẩn đất hoang hóa lập làng cùng các tộc Tiền Hiền, trước sau có bảy tộc chính là Họ Trần, Họ Nguyễn Đình Nguyễn Đức, Họ Huỳnh, Họ Đỗ, Họ Nguyễn Duy, Họ Lê, Họ Nguyễn Cỗ (họ Nguyễn Cỗ về lập làng sau chuyển đi nơi khác nhưng dân làng vẫn tưởng nhớ thờ tự). Về sau có thêm Họ Đinh. Họ Phạm, Họ Mai, Họ Nguyễn Thanh, Nguyễn Hữu.

Ngài em khai phá lập làng trên hữu ngạn sông Thu Bồn, ngài anh trên bờ Bắc tức Nam và Bắc Kỳ Lam. Họ Trần tại Kỳ Lam là họ lớn về thanh thế và cả số lượng nhân khẩu, nhân đinh.

Ngài Trần Khê Hầu, là người em làm Tiền Hiền an cư trên đất Kỳ Lam Nam, tại đây ngài sanh hạ nhưng chỉ một đời, sau không còn con cháu trong trực hệ. Dòng Vu Gia ào ào chảy vào mùa mưa lũ, ngọn nước xói trôi khu làng nầy từ bãi dâu thành hà sa nước ngậm, chia đôi Kỳ Lam trên hai bờ Thu Bồn. Ngài trú ngụ tại đây bao nhiêu năm không ai biết và chỉ biết mấy từ “thủy phá hóa hà sa”, quy luật dòng chảy thuận Nam phá Bắc bồi Nam, thuận Bắc phá Nam bồi Bắc, trong lòng người họ Trần luôn oán trách Thần Sông, Thần Đất đòi lại những thứ của thần nhưng chẳng để chút tình. Dân của ngài ly tán, mộ ngài nước giật, sợ chìm trong phù sa nơi đáy nước, con cháu đời sau trong tộc dời mộ ngài về bên mộ bào huynh trong khu mộ Tổ, linh vị cùng Thất Tộc Tiền Hiền an vị.

Các bài vị thờ tại nhà thờ Thất Tộc xưa nay, họ Trần có … linh vị, là những linh vị được đặt nơi chánh giữa.

Thứ nhất: Phụng vì truy viễn Sơ Tổ Dĩnh Xuyên quận Trần đại lang Tiền Hiền khai khẩn đệ dẫn Thượng tự Cao Tổ dĩ hạ vãng Thất Tổ.

Thứ hai: Phục vì Tiền vãng Cao Tổ Cai tổng Võ Khê Bá Trần quí công đại lang đệ dẫn Cữu huyền cổ chi vị đồng đẳng bỉ ngạn.

Thứ ba: Phục vì Tiền vãng Tằng Tổ Cai tổng Hùng Tài bá Trần thọ Lãnh đại lang phổ tiếp bát thế nẵng thân chí liệt vị môn trung.

Con ngài Trần Khê Hầu là Trần Thọ quí công Cai huyện hoành (chưa xác định được chữ Hoành là tên của ông hay là nghĩa một huyện lân cận) cũng là Hậu Hiền. Hậu duệ ngài Trần Thọ Lâm, hiền điệt của ngài Trần Công Đệ Khê Hầu, đứng ra lãnh phần thừa tự, kế thế phụng thờ, thổ điền phụng thủ nhưng đến đời thứ IV thì thất tự. Hậu duệ ngài Trần Thọ Diên tiếp tục thừa tự các ngài thất tự trong phái Nhì.

Ngài Tiền Hiền Trần Mậu Thái, khai cơ khởi nghiệp làng Kỳ Lam, là thân phụ các ngài Hậu Hiền Trần Thọ Lãnh – Trần Thọ Diên – Trần Thọ La – Trần Thọ Lâm và các bà Trần Thị Phò – Trần Thị Đây.

Toàn cảnh Từ Đường Trần Tộc

clip_image016Hai người con trai của ngài sanh hạ lưu lai đến ngày nay được mười sáu đời. Vì quá đông nhân khẩu, để thuận lợi trong việc kỵ giỗ riêng của các ngài trong phạm vi cữu tộc (thân thuộc trực hệ chín đời, từ cha mình tính lên bề trên bốn đời cao nhất là Cao Tổ và từ con mình tính xuống bốn đời) nên đã phân thành hai phái.

- Phái Nhất là hậu duệ của ngài Trần Thọ Lãnh, phái nầy là đông nhất của họ, có 4 chi.

- Phái Nhì là hậu duệ ngài Trần Thọ Diên, phái nầy con cháu ít hơn. Phái Hai qui tụ tại bờ Nam sông Thu Bồn, đến khi bị nước xói gần hết thì một số chuyển về phía Kỳ Lam Bắc. Trong những năm con cháu phái Hai dù ở bên kia nhưng tất cả sinh hoạt dòng họ đều tập trung tại nhà thờ họ. Phái Hai có 2 Chi.

- Bà Trần Thị Phò xuất giá làm phu nhân ngài Nguyễn Đình Triều Tiền Hiền họ Nguyễn Đình. Do cuộc hôn nhân nầy nên mối tình ràng buộc của dòng họ cháu ngoại Nguyễn Đình vẫn giữ lễ kính xưa nay, luôn dành phần trên trước cho họ Trần, làm khuôn thước cho các họ khác bắt chước theo. Thậm chí cử chiêng trống nghinh thần cũng phải chờ họ Trần nghinh trước, đây là niềm hãnh diện nhưng cũng chính việc nầy con cháu họ Trần phải thức thâu đêm lo việc của mình để còn kịp giờ cho các họ khác vào lễ bái.

Mộ ông bà họ Trần, ngày xưa đất thừa, thưa thớt dân cư nên chôn trên tư điền rải rác khắp cùng trong xã miễn nơi nào khô ráo, mượt nhuận thì chôn. Phía bờ Nam khi xói lỡ, đồng thời có lệnh quy hoạch tất cả đưa vào cụm Diêm Sơn. Phía bờ Bắc mộ cũng phải dời xuống vùng cát Cẩm Sa, xã Điện Nam. Mộ Tiền Hiền cũng không ngoài lệ, năm 1977, hài cốt ngài nằm giữa ngôi mộ lớn và sâu, ông Hương Sanh là người trách nhiệm di dời nhưng lực bất tòng tâm, ông đã hốt một hòm đất đem đi. Ngày ổn định, cho phép được chỉnh trang những phong tục Văn hóa dòng họ, hài cốt Tiền Hiền được đưa về vị trí cũ, hậu duệ qua đời tùng theo thành khu nghĩa địa họ Trần. Một số mộ thuộc chi Tư phái Nhất táng riêng một cụm khác.

clip_image018Dù thuộc phái nào cũng vậy, con cháu của các ngài hanh thông, khá giả vào bậc nhất nhì trong làng, cuộc sống thì phong lưu tuy nhiên làm quan hay làm dân đều hòa đồng với mọi người. Bản chất người họ Trần Kỳ Lam hiền hòa, sống rất trọng đạo nghĩa thánh hiền, biết đùm bọc người trong nội thân ngoại thích, ngoài xóm giềng như thân thuộc.

clip_image019Đời nhà nông xưa và nay, những công việc như tằm tơ, đường mía, bắp đậu, thuốc lá không món nông sản nào không có. Phương tiện sản xuất từ cày, bừa, trâu phục vụ vỡ đất; lò đường trong che, ngoài chảo; dầu đậu thì có bộng ép, cối chày, vồ nem lĩnh khỉnh; lại thêm ươm tằm kéo kén, quay tơ dệt lụa; lại có nhà trồng bông kéo sợi dệt hàng thô … heo gà nuôi không cầu đem ra chợ bán mà dành khi biển động chợ khan không cá hoặc dành để ngày kỵ giỗ đám tiệc. Bởi thực lực tài chánh có dư nên trước đây phần lớn con trai đều đi học, lớp trước học chữ Nho, lớp sau có chữ quốc ngữ theo quốc ngữ, bằng cấp cao thấp, từ primaire, Diplome thời trước. Ngày nay gái trai nhỏ lớn được đi học, có người Tú tài, người đến cử nhân, tiến sĩ không thiếu loại nào. Họ Trần kết nghĩa thông gia với nhiều họ trong làng ngoài xã, hầu như các họ xung quanh làng Kỳ Lam nếu không là ngoại của con cháu họ Trần thì họ Trần là họ ngoại của con cháu các họ; do vậy bước chân ra là giáp mặt kẻ bà con.

Cũng vì lẽ ấy, ông bà họ Trần luôn quan tâm vấn đề gia phả để giữ mối giềng nội ngoại, tránh những lỗi lầm của đời sau mà sai sót do người trước không làm.

clip_image021Chiến tranh, sự biến động cuộc sống kinh tế, công tác … đưa đẩy con cháu kẻ ở nơi nầy người nơi khác, từ miền Trung cho đến tận cùng phía Nam; như Rạch Giá , Cần Thơ, thành phố Hồ Chí Minh họ Trần Kỳ Lam nhiều ít đều có mặt. Không chỉ tại quốc nội mà tại Hoa Kỳ, Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan, Úc, Nhựt người họ Trần đều có định cư. Tại thành phố Hồ Chí Minh, theo lệ tại quê nhà con cháu sống tại thành phố và các nơi lân cận tập trung tổ chức Hội Vọng Tổ tại phường Bình Hưng Hòa, quận Bình Tân. Vì chưa đủ kinh phí xây dựng nhà thờ vọng nên còn nhờ nhà con cháu sinh hoạt. Quê hương vẫn là nơi chính, bao nhiêu đời, xa cách bao nhiêu năm ai ai cũng tìm về nguồn cội, dâng nén hương tưởng nhớ Tổ Tiên, ông bà, viếng từng nấm mồ xưa dù biết rằng xương tàn cốt rụi, hóa tro bụi từ lâu nhưng chính hình hài ấy là chứng tích để đời sau còn ngồi lại với nhau.

Gia phả phái chi IV lập năm 1967

Sau chiến tranh, chờ đợi ổn định nhiều mặt có chậm, một số mồ mả chưa kịp di dời phải thất lạc, hương hỏa ông bà cũng rời rạc, năm có năm không, nhất là những năm bao cấp nhà nước còn gặp cảnh cấm vận, kinh tề khó khăn phải lặng lẽ bỏ mặc, không họ nào cúng kính gì cả; các ngài cao đời cũng chỉ thờ gửi nhà trưởng tộc một cách khúm núm, đơn bạc, khó lòng đủ sắc thái trang nghiêm.
 
 

clip_image023

Bàn thờ thiết trí bên trong

 
 

clip_image025

Bình phong từ đường

Ghi nhớ lời cha trăn trối trước ngày chung mệnh, ông Trần Hoành (ông 5 Hòa) luôn trăn trở, tuổi gần 80 ông vẫn phải bôn ba các nước vận động các cháu ở hải ngoại chung tay; chính ông chỉ hưởng trợ cấp già ông cũng có phần đóng góp; ông luôn nghĩ đến tộc về nằm tại nước nhà, tiền trợ cấp mặc cho bị chính phủ nước cư trú cắt. Từ suy tư của những bậc cao niên, trách nhiệm tạo dựng những công trình chấn hưng gia tộc, gia phong phải khẩn trương thực hiện. Tinh thần đó đã gióng lên hồi chuông đánh thức nghĩa tình hiếu thảo, đánh thức niềm tự hào và sĩ diện trong từng người họ Trần trước tình hình chung các họ đang làm nhà thờ, chỉnh trang nghĩa địa.

Năm 1991, đồng một lúc, từ đường Trần tộc hoàn thành, nghĩa địa, mồ mả Tiền Hiền các vị và cả tộc được sửa sang khang trang. Sự hợp lực của con cháu người góp công kẻ chung của là việc làm mang tinh thần nhớ tổ tông, đề cao hiếu để và nghĩa tình sâu sắc tạo dựng điều vinh quang cho bổn tộc và cho cả chính mình. Những người ở nước ngoài có con cháu ông Trần Phú Xáng, Trần Phú Tỵ, người khó khăn trôi dạt đất Rạch Giá, tỉnh An Giang (ông Xáng còn có tên là 2 Ổi); sau định cư tại Hoa Kỳ gánh vác 70% giá trị công trình, phần còn lại là cả một cố gắng vì đồng tiền nhà quê quá khó. Công lớn hoàn thành hai công trình gia tộc một lúc phải nói đến ông Trần Hoành người xướng và cất công đi tứ xứ vận động kinh phí, ông Trần Văn Đình là cái bia đối đầu mọi cản trở, công lớn nối tiếp là người ở tại quê nhà hằng ngày, hằng tháng, hàng năm lo tô bồi chăm chuốc hai giá trị đã có.

Từ đường xây dựng trên nền cũ, mang đậm nét văn hóa Việt xưa. Từ đường thiết kế tiền đàng hậu tẩm, thành hai không gian lập thể riêng. Tiền đàng có tam gian nhị hạ, cổ lầu 4 mái, ngói vảy, nóc đắp lưỡng long tranh châu; quyết thượng, quyết hạ tiếp nối long lân qui phụng. Mái hiên chống đỡ bời hai cột đắp hình rồng cuốn nổi, hai đầu hồi là bức tường chắn thông song chữ thọ trên hai bậc thềm tiện cho việc tiếp đón phụ lão yếu đuối vào bái yết.

Nối theo phía sau là tẩm, bố trí nền cao hơn, tường nóc không khác tiền đàng. Không gian nầy bày thiết các hương áng thờ tự, từ Triệu tổ đến Chiêu tổ, Mục tổ và nội ngoại tùng tự. Biển, liễn thể hiện bằng chữ Nho để tăng thêm vẻ oai nghiêm trong thờ vọng.

Nhà thờ khá rộng nên phần minh đường không cần để thoáng mà bố trí thành một lối đi rộng xung quanh một vườn hoa kiểng sau lưng bức bình phong hình kỳ lân trên nền thủ quyển phá cách uyển chuyển của thợ. Hai nghi môn sừng sững bốn mặt đều đắp câu đối càng tô thêm dáng vóc trang nghiêm cho từ đường. Đúng là bề thế của một Trần Đại Tộc.

Khu nghĩa địa cũng hoành tráng không kém, trên một khu đất rộng con cháu còn giữ được. Mộ Tiền hiền về nằm trong tư thế họ nhà sang nơi ngày xưa ngài từng an nghỉ. Xung quanh tường xây rào đúc, cổng cửa vào ra có người quản lý. Các mộ xây hình chữ nhật thay vì xây nấm tròn có huynh, án như ngày xưa. Hình ảnh kèm dưới có thể nói thêm điều gì còn mà không nói được cho con cháu đời sau biết rõ.

Họ Trần rất mừng vui khi ông bà nhiều đời trên có nơi an trụ, mồ mả ấm thân, có lẽ nơi chín suối tổ tiên đã ngậm cười để rãnh rang lo bề siêu thoát, thùy ấm đức cho hậu duệ vinh hoa phú quý. Dưới bóng mát tổ tiên, hằng năm tụ họp giỗ tế, kết chặt thân tình nội ngoại, thỉnh thoảng nơi phương xa cháu con ghé lại có nơi dừng chân, có nơi đốt nén hương tỏ lòng tưởng nhớ và nghĩ suy, để lời hứa hẹn tô bồi cho tộc ngày thêm rạng rỡ.

Nghĩa địa tộc Trần

clip_image027Từng hoành phi, câu đối trang trí cho không gian thờ cổ kính, thể hiện nét văn hoa họ nhà vốn dòng hào kiệt, trong đó gửi theo ý nghĩa chữ hiếu, chữ ân sâu nặng, khuyên nhũ đời sau nối truyền tổ nghiệp vẻ vang, biết thông đạo làm người có cội rễ căn cơ.

Họ Trần góp phần làm đẹp lại Kỳ Lam bằng những công trình văn hóa tâm linh, bằng nếp sống gia đình bề thế, khang trang như ước mơ có ngày to đẹp hơn xưa và đang chở theo cả chữ hiếu mượt mà của con cháu họ Trần.

 
 

clip_image029

Khu nghĩa địa lúc mới xây dựng

 
 

clip_image031

Mộ Tiền Hiền

 
 

clip_image033

Các ngôi mộ Tiền Hiền

 
 

clip_image035

Mộ các ông bà hậu duệ đới X, XI, XII Phái I chi IV

 
 

clip_image037

Khu mộ phái I chi IV nhìn từ đầu mộ

clip_image038

Người họ Trần có truyền thống đùm bọc lẫn nhau, thương yêu cốt nhục như có tiền nhân đang theo nhắc nhỡ. Chuyện có từ trong lịch sử thời Vương Triều Trần.

- Ngài Tiết Chế Trần Quốc Công Hưng Đạo Vương và Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải vốn không thuận nhau vì chuyện Thái Sư Trần Thủ Độ gán ghép tình duyên cha mẹ. Một hôm, từ Vạn Kiếp về, sau một ngày cùng nhau đánh cờ, ngài Quốc Tuấn đã có cỡi áo nhúng nước lau mình tắm cho ngài Trần Quang Khải vốn người lười tắm. Chốn quan trường hai vị trí có thấp cao, nhưng tình huynh nghĩa đệ không cao thấp. Chỉ một câu nói tuy đơn sơ nhưng thấm tình cốt nhục: “Hôm nay tôi được tắm cho Thượng tướng – Hôm nay tôi được Quốc Công tắm rửa cho” đã lau sạch luôn cả những gì ngày xưa còn sót lại.

- Năm 1237, từ việc sắp đặt mưu cầu nối nghiệp nhà Trần, Thái Sư Trần Thủ Độ buộc Thuận Thiên Công chúa vợ của Phụng Càn Vương Trần Liễu lập Hoàng hậu cho vua Trần Thái Tông; nỗi lòng Trần Liễu sanh uất ức làm loạn. Vua lo ngại bỏ lên núi Yên Tử than rằng: “Ta còn non trẻ phụ hoàng mất sớm không chỗ trông cậy nên không dám giữ ngôi vua, sợ làm nhục đến xã tắc”, nhưng Thái Sư quyết một mực đưa về kinh. Trần Liễu giả làm người đánh cá dùng thuyền độc mộc đến gặp vua xin hàng. Anh em nhìn nhau khóc lóc, Thái Sư hay biết rút gươm thẳng vào thuyền vua tìm chém Trần Liễu nhưng vua giấu dưới thuyền và lấy thân mình che cho Trần Liễu.

- Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, người mưu lược quân cơ, tài văn thơ nhưng mang bệnh trăng hoa. Vì thông dâm với Công chúa Thiên Thụy dâu Trần Quốc Tuấn, ngại phật lòng Quốc Tuấn vua xử phạt, sai quân đem Khánh Dư đến Hồ Tây đánh cho chết nhưng dặn chớ đánh đau để không phải đến nỗi chết. Sau đó tước hết chức và tài sản.

Nhà Trần tổ chức hội nghị Bình Than, vua đổ thuyền ở bến Bình Than, gặp Khánh Dư nón lá, áo cụt chèo thuyền bán than. Thương người anh em: “Nam nhi mà đến thế là cùng cực lắm rồi”; vua cho về nhận lại quan vị dưới hàng Vương.

Đó là gần ngàn năm trước, nay anh em họ Trần Kỳ Lam cũng mang theo gương cũ soi mình.

Chiến tranh là thời thế tạo, đất nước có phân chia nhưng dòng máu thì muôn đời chỉ một. Kẻ ở miền Nam cuốn theo gió miền Nam, người ra miền Bắc có lập trường và lý tưởng phía Bắc. Về mặc xã hội trong gia tộc có hai chính kiến, kẻ ở lại bước theo đường lối tư bản, kẻ tập kết ra Bắc vì Độc lập tự do trên lý tưởng Cộng sản, anh em trên quan điểm chính trị là thù địch.

Ngày giải phóng 30 tháng 4 năm 1975, những người họ Trần theo Cách mạng thành người chiến thắng trở về, tìm đến thăm họ hàng người già kẻ trẻ, thăm nhau dù ở gần hoặc ở xa, tình cảm dạt dào, huyết thống thấm đượm, đặc biệt họ chẳng hề nói chuyện đấu tranh để cách ngăn tình cảm. Điển hình là ông Trần Văn Đình và ông Trần Nhơn, đã lặn lội thăm các ông Trần Phước Xáng nguyên phó tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam, ông Trần Hoanh thẩm phán tòa án quân sự chính quyền Ngô Đình Diệm đang tập trung cải tạo tại Tiên Lãnh.

Các ông Trần Phước Xáng và ông Trần Hoanh luôn là tấm chắn cho anh em dòng họ Trần trong suốt thời kỳ có vị trí quan trọng tại miền Nam. Ông Trần Phước Xáng là quận trưởng Hàm Tân, sau bổ nhiệm làm tỉnh phó nhưng mỗi khi lái xe đi thấy người cùng làng là dừng xe mời lên cùng đi, không phân biệt sang hèn.

Ông Hương Sanh, người đầu tiên của họ Trần Kỳ Lam, đời sau biết là người từng giúp anh em trong họ. Đó là câu chuyện gia đình anh em ông Trần Phú Xáng – Trần Phú Tỵ con ông Hương Tích, nghèo khó phải đi bộ vào miền Nam, thế chấp ruộng, không tiền trả lãi, ông Hương Sanh đứng ra lãnh nợ để anh em ông Trần Phú Xáng yên lòng gầy dựng cơ nghiệp. Anh em ông sau giàu sang ở xứ người, cho con ăn học rồi định cư ở Mỹ, để báo đáp tình nghĩa cho ông Hương Sanh, con cháu là Trần Thao, Trần Trợ con của ông Trần Đương thành những người đóng góp vật chất lớn cho tộc.

Đến lượt ông Trần Hoành tức ông Năm Hòa, người kinh doanh sớm thành đạt, rời xa quê hương từ năm 1951, sanh sống tại Phú Nhuận thành phố Sài Gòn. Tại nơi đất khách nhà ông là nơi cả làng đến trú ngụ, kẻ bị chính quyền Sài Gòn theo dõi, người nhà nghèo tìm đất mới làm ăn. Ông đã nuôi cơm, sắm chỗ ngủ không ngại thời gian và chẳng phiền hà.

Tình nghĩa vợ chồng ông dành cho anh em, sau ngày giải phóng có một số tiếp tục sự nghiệp Cách mạng, cũng vì tình anh em họ che chỡ và giúp ông ngày càng giàu có và cũng chính tình cảm, uy tín của ông được cân nhắc lên làm trạm trưởng thu mua thủy sản của bộ đặt tại Rạch Giá.

Người Cộng Sản Trần Nhơn, công tác và nghỉ hưu tại Củ Chi. Người mà ông Trần Văn Hòa biết đang hoạt động kinh tài ngay giữa lòng đối phương trên đất Sài Gòn. Ông Hòa đã nuôi ăn, ở công tác trong nhà, mặc dù anh em ruột, anh em phía vợ ông Hòa là người trong hàng ngũ người Sài Gòn. Ông Trần Nhơn nhiều lúc ghé nhà ông Hòa, gặp lính, gặp cảnh sát nhưng ông Nhơn thì nhanh trí, ông Hòa thì khéo léo vận dụng hoàn cảnh che chở nhau không bị lộ. Ngày 30 tết Mậu Thân, chuẩn bị tổng công kích, ông Nhơn không nói rõ bí mật quân cơ nhưng ông đã tranh thủ về nhà ông Hòa nhắc bảo: “các ngày tết không được ra đường, nhớ lời tôi dặn”, gia đình ông Hòa hiểu ý lo gạo mắm phòng cơ. Cũng chuyện của ông Nhơn, khi ông Trần Nhơn làm nhiệm vụ về nhà gặp một lúc mấy anh em: Trần Văn Toàn Đoàn trưởng cán bộ Xây dựng Nông thôn quận Hóc Môn, Lưu Văn Thiệt Thiếu tá Trưởng ty cảnh sát Cam Ranh, sau có thêm ông Nguyễn Duy Anh, đạp xích lô làm Cộng Sản. Ông Hòa giới thiệu cho nhau biết. Anh em cùng nhập cuộc uống bia với nhau đã đời rồi phần ai nấy đi, không hề đối đầu hiềm khích. Ông Nguyễn Duy Anh sau về làm Giám Đốc Công ty Xuất Nhập Khẩu Cá Rạch Giá và ông Hòa tác hợp thành rễ họ Trần Kỳ Lam.

Ông Trần Văn Đình có lần đã thổ lộ tâm tư. “ Ngày trước giải phóng tôi vào chiến trường miền Nam, mỗi lần ra trận với tư cách chỉ huy, tôi luôn hồi hộp. Tôi không biết trong đối phương có anh em họ Trần của tôi không; bao nhiêu xa cách đi làm cách mạng mục đích để dòng họ được sum vầy, Bắc Nam thống nhất, anh em chưa có dịp gặp, chẳng may ví như lâm trong tình cảnh cốt nhục bắn nhau hóa ra tôi là người lỗi với tổ tiên”. Câu nói nặng tình cốt nhục của ông Đình không thể không ghi lại để đời suy gẫm.

Ông Trần Quang nguyên là cán bộ chính quyền Việt Minh, sau làm chánh văn phòng quận Điện Bàn. Với tấm lòng vì thân tình, không kể là bà con mà cả người trong quận, mỗi khi bị chính quyền Sài Gòn bắt ông đều tìm cách xin tha. Bởi lẽ ấy, ngày giải phóng năm 1975, ông được nhân dân của huyện Điện Bàn đứng ra đệ đơn xin tha ông không tập trung cải tạo; chính quyền Quân quản xét thấy chánh đáng và đã nhất trí với đề nghị của nhân dân.

Ông Trần Văn Hòe, tốt nghiệp sĩ quan trường võ bị Thủ Đức của quân đội Sài Gòn, Trưởng đồn đèo Bình Đê, Quảng Ngãi. Nơi đây thường xãy ra chiến sự, lý do là những người chỉ huy trước thường hay hạch sách, bắt bớ dân địa phương. Khi ông Hòe về, nghe lời cha dặn phải sống cho có đạo đức, không làm những chuyện ác giống người ta. Quả vậy, ông sống rất yên lành, ngày giải phóng chính dân dẫn đường chạy, về nhà bình yên.

Thật đáng mừng cho con cháu họ Trần. Không những người cùng dòng họ Trần mà người cùng quê hương, người sống gần bất kỳ ở đâu, họ vẫn có mối thâm tình, chữ nhân làm đầu, không hại lẫn nhau dù mỗi kẻ một lối đi, dù giận hờn lớn tiếng nhưng chưa bao giờ hồ đồ đánh đập lẫn nhau. Oán thù không gieo, oan khiên không ràng buộc là cương thường của thánh nhân, là đạo làm người; người họ Trần biết giữ.

Gương xưa, chuyện nay vẫn ẩn núp trong máu huyết những người con họ Trần cả nước nói chung, họ Trần Kỳ Lam nói riêng. Chuyện đối đầu và chính kiến trong dòng họ không bao giờ xãy ra, dòng máu vẫn luôn trên hết, anh em là giọt máu cắt phần mỗi người có một. Tổ tiên sẽ rất mừng vui với nếp nhà sáng rỡ, anh em nhiều đời mãi thương nhau vì chung dòng máu tổ. Thêm nữa, bản tính hiền hòa, nhân nghĩa luôn có trong lòng người họ Trần Kỳ Lam cũng là một phước báu khéo dưỡng nuôi từ nhiều đời.

hc0cf

clip_image040

clip_image042

clip_image044

Ông Trần Văn Hòa

Ông Trần Văn Hoanh

clip_image047

       
 

Ông Trần Phước Xáng

 

Ông Trần Văn Đình

TỔ TIÊN CHE BÓNG

CON CHÁU MÃI YÊN LÀNH

Người cảm nhận đầu tiên cái bóng che của tổ tiên là ông Hương Sanh, kế đến là ông Trần Văn Hòa. Trước không gian máu lửa, trên bom dưới đạn, nhân dân người bị thương người chết, các chiến sĩ trận vong dù bên nầy bên kia, quê hương ta đầy đau thương và tang tóc làm người chẳng ai khỏi chạnh lòng đau.

Tuy nhiên mỗi người đều được mỗi cái phước khác nhau nên sự may mắn không ai dám phủ nhận. Ông Trần Văn Hòa kể lại các sự tình đã xãy ra trong những năm chiến tranh đánh Mỹ, đánh Tây như một thần thoại.

Bắt đầu câu chuyện thời đánh Pháp.

Bà Hương Sanh một lần chạy giặc Tây năm 1947 qua Gò Nỗi, bên kia sông cùng đi với người hàng xóm; lúc Tây đi càn bằng đường sông, bị dân quân địa phương bắn sẻ chết vài tên, khi lên bờ chúng tàn sát gần cả trăm người dân lương thiện không kể gái trai già trẻ rất thảm thương. Bà Hương Sanh cùng người đồng hành gánh theo một gánh gà, sợ gà kêu làm lộ nơi trú ẩn, hai người ngồi vặn hết cổ gà cho chết. Ông bạn già đi chung buồn tình bỏ nơi trú ẩn ra đi, Tây thấy bắt và bắn chết, đến phiên bà chúng gặp nhưng lại làm ngơ không bắn mà cũng chẳng bắt. Bà còn chứng kiến một số con cháu cả nội lẫn ngoại người họ Trần từ Bì Nhai, Nông Sơn và ngay cả tại Gò Nỗi, trốn bị kêu lên điểm mặt nhưng rồi lại tha không bị bắn. Thật kỳ lạ! Bà cùng chị em cô cháu thoát chết về mừng vui sắm hương hoa lễ vật lên tạ ơn tiên tổ Trần đã cứu cháu con từ cõi chết trở về.

Khoảng trước năm 1951, Kỳ Lam là khu hành chánh của chính quyền Bảo Đại, có một trung đội lính Bảo An đóng đồn giữ an ninh. Mỗi khi lập căn cứ chúng thường xác định lại tọa độ nên cho đại bác bắn thử, thật tình lính có rao bảo dân vào đồn để thử đích nhưng ác nghiệt gió nồm tạt âm thanh làm dân phía đông đồn không nghe. Sự cố làm chết một số người, trong đó có nhà ông Hương Sanh. Tình tiết của cái chết trong nhà ông vô cùng kỳ bí, nghĩ đã có tổ tiên họ Trần che chở bà Hương Sanh và người cháu gọi bà bằng bà nội. Đang lúc trưa nhà đang giả đậu vỏ, bà nội ông Năm Hoành bỗng dưng bảo anh ông đưa người cháu nhỏ nằm trong nôi lên nhà trên. Anh ông vừa đem lên, mẹ ông tiếp tục giả đậu. Những loạt đạn đại bác ào ào đổ xuống nhà bà con, tại nhà ông Hương Sanh rơi ngay nóc nhà chính nơi treo nôi cậu con trai. Hai cha con người anh đi ra khỏi chổ hiểm nguy bà mẹ ông Hương Sanh đã 90 tuổi, bị thuốc nổ ép chết, bà Hương Sanh đứng giả nhưng không bị gì cả. Lúc hoàn hồn thì thấy cái chày cầm trên tay đã đứt đôi gần vị trí tay cầm. Có phải sự khiến mách của ông bà đã đưa đẩy, cứu con cháu được tai qua nạn khỏi.

Ông Hương Sanh, trước phút lâm chung vẫn còn nhớ những may mắn chỉ có tổ tiên sắp bày mới có, ông nhắc trong nhà, nhắn cùng cháu con trong họ phải nhớ ơn Tổ tiên và luôn nghĩ phước ấm tổ tiên luôn trải trên từng con cháu. Điều báo đáp là không làm điều thất hiếu, thờ tự trang nghiêm, ăn ở đạo đức, thương yêu đùm bọc anh em bà con cho trọn tình chí nghĩa như tiên tổ từng cho ta.

Trên đây chỉ mới một cảm nhận của ông Năm Hoành, còn nhiều con cháu khác cũng đã nhận được phước nầy hoặc bằng cách nầy hoặc phương khác nhưng chưa có dịp tỏ phân, hãy ghi thêm cho ân nghĩa đậm đà hơn.

Quả thật bóng che của Tổ tiên đời con cháu đã yên lành.

hc0cf

 
  clip_image052

Bút tích của ông Hương Sanh

CÁC BÀI VĂN TẾ CỦA TỘC

Các bài văn tế nguyên bản bằng chữ Nho, được âm lại cho đời sau có thể đọc được,(đây là bản thảo, phần chữ Nho sẽ đánh máy và dịch trong bản chính).

VĂN TẾ THANH MINH

(TRẦN ĐẠI TỘC VĂN TẾ THANH MINH DIÊN)

Việt nam tuế thứ ….(mỗ) niên …. ngoạt …. nhựt.

Quảng Nam tỉnh, Điện Bàn huyện, Kỳ Châu xã, Kỳ Lam thôn, Trần

đại tộc tự tôn bổn tộc đẳng.

Tư nhơn Thanh minh lễ lệ, tu tảo mộ phần; cẩn dụng hương đăng,

thanh chước, trầm trà, quả phẩm chi nghi

Cẩn cáo vu,

- Hiển Thỉ tổ khai sáng sơ cơ Trần Mậu nhất lang húy Thái, thụy viết

Hòa Bình quí công Huynh khảo tỉ thần vị.

- Hiển Thỉ tổ triệu tạo sơ cơ Trần nhị lang húy Võ Khê Hầu, thụy

viết Oai Cường quí công Đệ khảo tỉ thần vị.

- Hiển Tiên tổ Tiền hiền, công đức Cai tổng Hùng Tài Hầu Trần

Thọ húy Lãnh, thụy viết Tuấn Cao đệ nhất lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển Tiên tổ Tiền hiền, công đức Tướng thần Tráng Nghĩa Bá

Trần Thọ húy Diên, thụy viết Miên Trường nhị lang khảo tỉ thần vị.

Hiển Tiên tổ Tiền hiền, công đức Cai huyện hoành, Trần Thọ húy La

thụy viết Bố Liệt đệ tam lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển Tiên tổ Tiền hiền công đức Phụ quốc Thượng Tướng Quân Tướng thần truyền, Trần Thọ húy Lâm, thụy viết Sơn Cước đệ t71 lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển thế tổ Hậu hiền công nghiệp Trần Hưng tự Binh, húy Nhượng, thụy viết Khiêm Cung đệ nhất lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển thế tổ Hậu hiền công nghiệp Trần Hưng, húy Bút thụy viết Hùng Thư đệ nhị lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển thế tổ Hậu hiền công nghiệp Trần Phú tự Cẩm, húy Lộc, thụy viết Học Sĩ đệ tam lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển thế tổ Hậu hiền công nghiệp Trần Phước tự Đạo, húy Thọ, thụy viết Nhân Đức đệ nhất lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển thế tổ Hậu hiền công nghiệp Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Cẩm Uy Vệ Đô Chỉ Huy Sứ Ty phó Đề Đốc triều Trần quí công húy Dương Hầu thụy viết Cao Trương đệ nhị lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển thế tổ Hậu hiền công nghiệp Trần Phước, húy Ra, thụy viết Xuất Ông đệ tam lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển thế tổ Hậu hiền công nghiệp Tướng Thần Hoa Sơn Tử Trần

Phước húy Minh, thụy viết Quang Huy đệ tứ lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển thế tổ cô Trần Thị hiệu Phò quý nương chánh vị

- Hiển thế tổ cô Trần Thị hiệu Đây quý nương chánh vị.

Viết Cung duy,

Tiền nhân công cao thất tánh đức phối lưỡng nghi.

Bắc địa sơ cơ, hệ xuất Dĩnh Xuyên nguyên cựu quận. Nam thiên tỉ ấp địa tùng Thuận Hóa thuộc kinh ký, tưởng đương sơ triệu khải Hương Trà, Mộc Hàn chi di phong tồn sự tích khánh kim nhật Điện An, Diên Phước, Kỳ Lam chi thắng cảnh thọ căn cơ lục bách mẫu công tư khẩn thác quan tiền chi đức đại càn nguyên thập ngũ thập ngũ truyền thế đại phồn xương dụ hậu chi di mưu phong tỵ

Kỳ lãnh khai tiên, Lam điền sáng thỉ,

Hệ xuất Dĩnh Xuyên, nguyên tùng Hương Thủy.

Lục bách mẫu công tư khẩn thác, quang tiền chi đức đại Càn nguyên,

Thập ngũ truyền thế đợi phồn xương, dũ hậu chi mưu thâm phong tỵ.

Tố tích nhật tự cơ cầu tạo, phụng sùng tố hữu minh yên,

Hiện kim nhật phổ hệ sùng tu, thập thế tăng đăng hoàn bị.

Tư nhơn Tiên linh kỵ nhật, Thanh minh tảo mộ, kỉnh trí phỉ nghi,

Áng thượng thiết hương hoa chi lễ, ngung trạc trạc dĩ đầu thầm,

Bôi trung hành trà tửu chi nghi, vọng dương dương chi lai kỵ.

Phục ký tinh thần tụy tụ, lai hưởng lai hâm;

Ngưỡng kỳ linh sảng y qui, khắc yên khắc tự.

Thập thế huân khảo, thê lương canh tường nhược kiến giáng lâm

Thường niên thân thể tinh anh, tả hữu thường như cách chỉ, giám thử đơn thành, tuy chi phước lý.

Lưỡng phái kim chi ngọc diệp, thượng kỳ viết phú viết thọ, viết khương ninh.

Nhất đường lân chỉ phụng mao, thứ dĩ tỷ ngại, tỷ tang, tỷ xương xí thiệt lại.

Tổ tôn chi hộ tý dã.

Phục vi cẩn cáo.

hc0cf

VĂN TẾ GIỖ TIỀN HIỀN

(Ngày 23 tháng 6)

Lục ngoạt, nhị thập tam nhựt, húy nhựt Thỉ tổ Tiền hiền tế văn

Viết Cung duy,

Kỉnh tưởng trên,

Thỉ tổ Tiền hiền Kỳ phong cội vững, Lam thủy mạch dài, hai phái xinh tròn phước qua sắp đến, nay dòng dõi sum vầy một nhà tụ hội đoàn viên, chạnh nhớ trước ông bà xây dựng.

Các đấng Tiên linh xưa,

Hồng Bàng gẫm thiệt nhà tông Hồng Lạc vẫn là nước tổ Bắc quốc Dĩnh Xuyên quận cựu. Giống sẵn Lạc Hồng Nam bang Thuận Hóa nền xưa bổn dòng thượng cổ, gặp Triều lê mở miền Nam rộng cỏi phi thường, làm cho tỏ mặt chí nam nhơn đương nhận tháo cung hội Thánh Tôn sai người Bắc vào đây dặm hồng bội quyên 5 chinh yên, phận thần tử dám đem lòng hoài thổ. Anh thái công em võ sĩ dắt dìu thê tử, đôi vai nặng gánh phong trần, đất chân Lạp cõi Chiêm thành khẩn trị Thảo lai hiệp sức chung khai thổ vũ, trải qua đời Cảnh Trị, kế sau lại có người Nghệ Thanh tiếp võ. Đương lúc quy dân lập xã, có sáu ngài đồng thời tấn bộ khai canh, chung cùng bảy họ vốn phong võ bụi thang. Biến khởi Quang Trung vừa trải cuộc can qua, vẻ thái bình cây cỏ đua tươi, Vua Gia Dụ sức chỉnh tu điền bộ, cỏoi4 bờ sang sửa trải bao phen công nghiệp mới có ngày nay.đất ruộng mở mang phân tam xứ, giới cương tùng từ thuở nọ, chiếm đặng địa đồ quảng mịch, công tư điền thổ kể có sáu trăm mẫu, lịnh truyền cho dân xã canh cư. Tiền hậu tuân thừa trải đà mười bốn thế phổ.

Tư nhơn Tiền hiền húy nhựt, đạm bạc đặt bày phỉ lễ, đốt nén hương quỳ trước từ đường, vái vang kỷ niệm thành tâm, rót chung trà dâng lên tiên tổ.

Xin tủ tổ chứng lòng thành kỉnh để, dành cho những cuộc vuông tròn, giúp nhĩ tôn giỏi nghiệp nông thương, đặng thấy thường niên no đủ. Cơn mạc kiếp phong trần biến cải, bảo cọng hòa theo mấy hội, người xưa vận hạ nguyên thế cuộc, chuyển di mang hạnh phúc rạng mười phần, đất cũ nguyện với tổ tông từ trước, hưởng chử khương ninh còn nhiều, phước lộc về sau nhờ ơn tí hộ.

Phục duy cẩn cáo.

hc0cf

VĂN TẾ XUÂN THU HIỆP TỰ

Trần Tộc đệ nhất phái Xuân Thu hiệp tự tế văn.

Việt Nam tuế thứ ….. niên, … ngoạt, …. Nhật, Quảng Nam tỉnh, Điện Bàn huyện, Kỳ Châu xã, Kỳ Lam thôn.

Trần tộc đệ nhất phái, bổn phái tự tôn đẳng.

Chánh tế Trần ………………… (tự tôn đệ thập tam thế)

Tả hữu phân hiến Trần ………………. Trần ………………..

Tư nhơn Thanh Minh tiết giới tảo mộ linh phần, kỉnh dụng hương đăng thanh chước trầm trà quả phẩm chi nghi.

Cảm chiêu cáo vu,

- Hiển đệ tam thế tổ Hậu hiền công nghiệp Trần Phú tư Cẩm húy Lộc, thụy viết Học Sĩ đệ tam lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển đệ tứ thế tổ Trần Phú … húy Mạng đệ nhất lang khảo tỉ thần vị

- Hiển đệ tứ thế tổ Trần Phú húy Lập, thụy viết Dự Sự đệ nhị lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển đệ ngũ thế tổ Trần Văn húy Tạo đệ nhất lang tùng tự chi thần vị.

- Hiển đệ ngũ thế tổ Trần Văn húy Tình, thụy viết Tinh Trung đệ nhị lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển đệ lục thế tổ Trần Đăng húy Khôi, thụy viết Cao Đệ đệ nhất lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển đệ lục thế tổ Trần Phước húy Chi đệ nhị lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển đệ lục thế tổ Trần Phước húy Đức, thụy viết Hữu Lân đệ tam lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển đệ lục thế tổ Trần Văn húy Tịch đệ tứ lang tùng tự chi thần vị.

- Hiển đệ lục thế tổ Trần Văn húy Miễng đệ ngũ lang tùng tự chi thần vị.

- Hiển đệ lục thế tổ cô Trần Thị Lục, Trần Thị Đục, Trần Thị Rễ, Trần Thị Bông, Trần Thị Bọt, Trần Thị Biều tùng tự liệt vị.

- Hiển đệ thất thế tổ nhất lang Trần Đăng húy Bản, nhị lang Trần Đăng húy Tấn, tam lang Trần Đăng húy Đạo khảo tỉ thần vị.

- Hiển đệ thất thế tổ Trần Văn húy Cẩn đệ nhất lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển đệ thất thế tổ nhất lang Trần Văn húy Thiện, nhị lang Trần Văn húy An khảo tỉ thần vị.

- Hiển đệ bát thế tổ Tổ bá, Tổ khảo, Tổ thúc khảo tỉ liệt vị.

- Hiển đệ bát thế tổ cô tùng tự liệt vị

- Hiển đệ cữu thế tổ Tổ bá, Tổ khảo, Tổ thúc khảo tỉ liệt vị.

- Hiển đệ cữu thế tổ cô tùng tự liệt vị

- Hiển đệ thập thế tổ Tổ bá, Tổ khảo, Tổ thúc khảo tỉ liệt vị.

- Hiển đệ thập thế tổ cô tùng tự liệt vị

- Hiển đệ thập nhất thế tổ Tổ bá, Tổ khảo, Tổ thúc khảo tỉ liệt vị.

- Hiển đệ thập nhất thế tổ cô tùng tự liệt vị.

- Hiển đệ thập nhị thế Hiển bá, Hiển khảo, Hiển thúc khảo tỉ liệt vị.

- Hiển đệ thập nhị thế hiển cô tùng tự liệt vị.

- Đệ thập tam thế quá thế chư thần chánh hương hồn liệt vị

- Bổn phái lịch đợi hữu danh vô vị hữu vị vô danh đẳng chư tùng thự liệt vị.

Viết cung duy,

Tiên tổ, Càn nguyên tư thỉ, Khôn nguyên tư sanh, di tôn dĩ yến húc tử du thành, mộ hiển liệt thừa, hệ xuất tiền hiền, ba trụ chi phân phái. Diễn thế truyền Dĩnh quận phong thanh, tư hiếu phụng tiên, phụ chi tác tử chi thuật, an cư lạc nghiệp, sĩ giã độc nông giã tự vũ trang nghiêm, chung cổ tinh thần bất diệt, yên hương tiến hưởng tùng lai tự sự Khổng Minh. Kỳ lãnh nguy nguy, căn thâm diệp mậu; Lam giang cổn cổn nguyên khiết lưu thanh.

Tư nhơn Xuân tiết hoặc thứ tải thiết sanh tư ngưỡng kỳ mặc cách, thứ biểu di thành, trắc gián hữu phụ, vị liệt cao tằng tổ khảo gián lâm, như tại ban phân bá thúc đệ huynh. Tích chi phước lí tỷ đắt phong hanh, miêu duệ phồn hưng, lân chỉ giai thị, phiên vịnh vân nhưng, vĩnh dẫn chung tư, khuê du vận trùng, khánh phái nhi chi tử hiếu tôn từ, xuất xử lưỡng đồ giai phát đạt, kim nhược tích quang tiền dụ hậu, miên diên nội ngoại cọng phu vinh, thị hưởng thị chung, tuế phục tuế vĩnh, thùy vô cữu tư ca tư, tụ niên nhi niên, trường bảo thái bình thiệt lại.

Phục duy cẩn cáo.

hc0cf

VĂN TẾ XUÂN THU TẾ VĂN

Trần tộc Nhất phái đệ Nhất chi

Việt Nam tuế thứ ….. niên, … ngoạt, …. Nhật, Quảng Nam tỉnh, Điện Bàn huyện, Kỳ Châu xã, Kỳ Lam thôn.

Trần tộc nhất phái, đệ nhất chi tự tôn đẳng.

(Bài văn nầy viết cho chánh tế là đời thứ XII)

Tư nhơn Xuân (Thu) tế lễ lệ, cẩn dụng hương đăng, trầm trà hoa quả thứ phẩm chi nghi.

Cảm cáo vu,

- Hiển đệ thất thế Cao cao tổ Trần Đăng húy Bản, tự Hiến thụy viết Cao Phiên đệ nhất lang khảo tỉ thần vị.

- Hiển đệ thất thế Cao cao tổ tỉ Nguyễn Thị hiệu Lành, thụy viết Tích Thiện quý cơ chánh vị.

- Hiển đệ thất thế cao cao tổ tỉ Vương Thị hiệu Định kế thất ci vị.

- Hiển đệ bát thế Cao tổ Trần Đăng húy Quế, tự Đơn Chi đệ nhất lang khảo tỉ chi vị.

- Hiển đệ bát thế Cao tổ Trần Đăng húy Thúc, tự Cấn huyễn đệ nhị lang khảo tỉ chi vị.

- Hiển đệ bát thế Cao tổ Trần Đăng húy Thung, tự Linh Chu đệ tam lang khảo tỉ chi vị.

- Hiển đệ bát thế Cao tổ Trần Đăng húy Cẩn, tự Ốc Du đệ tứ lang khảo tỉ chi vị.

- Hiển đệ bát thế Cao tổ Trần Đăng húy Hiểu, tự Hảnh Trai đệ ngũ lang khảo tỉ chi vị.

- Hiển đệ bát thế Cao tổ Trần Đăng húy Súy, tự Võ Tướng đệ lục lang khảo tỉ chi vị.

- Hiển đệ bát thế Cao tổ thất lang Trần Đăng Trì, bát lang trần đăng Trọng tùng tự chi vị.

- Hiển đệ bát thế Cao tổ cô Trần Thị Tùy, Trần Thị Tiến, Trần thị Độc, Trần Thị Thành liệt vị.

- Hiển đệ cữu thế Tằng tổ bá, Tằng tổ khảo, Tằng tổ thúc khảo tỉ liệt vị.

- Hiển đệ cữu thế Tằng tổ cô liệt vị.

- Hiển đệ thập thế Hiển tổ bá, Hiển tổ khảo, Hiển tổ thúc khảo tỉ liệt vị.

- Hiển đệ thập thế lãnh cô tùng tự liệt vị.

- Hiển đệ thập nhất thế Hiển bá, Hiển khảo, Hiển thúc khảo tỉ liệt vị.

- Hiển đệ thập nhất thế cô tùng tự liệt vị.

- Đệ thập nhị thế tôn quá thế chư thần chánh hương hồn liệt vị.

Viết cung duy,

Tứ thân, trác đôi kỳ chất kim ngọc kỳ chương tôn mưu di khuyết, thạnh đức bất vong, hồi tư kiến đốc, cơ cần dịch dị, tôn môn vu bá thế, mến tưởng cao tằng tổ khảo, tinh thần tụy tụ vu nhất đường.

Tư nhơn xuân (Thu) lạnh tiết cung trần trở đậu, tải thiết tửu tương, thượng kỳ lai cách, tích di bình khang, bá niên lai tôn tổ triệu bồi, vĩnh trứ thiên thu, nhi viễn dẫn bách thế hậu thần minh, đốc khánh trưng nhất mạch dĩ lưu quang. Ngưỡng lại tứ thân chi đại đức dã.

Phục duy cẩn cáo.

hc0cf

DANH SÁCH ĐÓNG GÓP XÂY DỰNG

 
 

clip_image054

 
 

clip_image056

clip_image058

NGŨ PHỤNG TỀ PHI

NIỀM TỰ HÀO CỦA SĨ TỬ QUẢNG NAM

Mặc dù dòng họ Trần chúng ta thời ấy không sánh vai cùng các cụ, nhưng đây là niềm tự hào chung của người đất Quảng và huyện Điện Bàn. Nhất thời họ Trần ta và một số dòng họ khác không thành tên tuổi, nhưng vinh quang sẵn dành, đây chính là dấu ấn cháu con luôn nhắn nhau ghi nhớ.
Tiến Sĩ PHẠM LIỆU

Tự là Sư Giám, hiệu là Tăng Phố. Sinh năm 1873, mất năm 1937, quê xã Trừng Giang, tổng Đa Hòa Thượng, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đỗ Cử nhân năm 1894. Đỗ đầu trong nhóm Đệ tam giáp lúc mới 26 tuổi. Sau khi đỗ, ông được lưu lại Huế học tiếng Pháp tại Tứ Dịch quán. Năm 1901, được bổ làm tri huyện Đông Sơn rồi tri phủ Nga Sơn ở Thanh Hóa. Năm 1905, làm chủ sự bộ Hình rồi chủ sự Quốc sử quán ở kinh đô. Năm 1908, được bổ làm tri huyện Phù Cát (Bình Định). Năm 1912, làm viên ngoại phụ chánh Cơ mật viện, hàm Quang lộc tự thiếu khanh. Khoa thi năm Quý Sửu (1913), làm quan duyệt quyển cùng với Nguyễn Thiện Hành - biện lý bộ Học. Hai năm sau, được thăng hàm Hồng lô tự khanh, làm phó chủ khảo trường thi Hương tại Nghệ An. Trải qua nhiều chức trọng quyền cao nơi triều chính, như tham tri bộ Công và tham tri bộ Lại, đến năm 1929 còn được bổ làm thượng thư bộ Binh. Đến năm 1933, vua Bảo Đại cải tổ nội các, bãi nhiệm cùng lúc 5 thượng thư, trong đó có cả Phạm Liệu. Ông về hưu tại quê nhà và mất ngày 21 tháng 11 năm 1937.

Một trong những người con trai là nhà thơ Phạm Hầu, từng được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong tập Thi nhân Việt Nam rằng: “Ở giữa đời, Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để dấu trên đường đi.

Tiến Sĩ PHAN QUANG

Tự là Quế Nam. Sinh năm 1873, mất 1939, quê xã Phước Sơn Thượng, tổng Xuân Phú Trung, huyện Quế Sơn, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Quế Châu, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam). Là bạn đồng niên, đồng môn, đồng song, đồng khoa với Tiến sĩ Phạm Liệu: cùng học trường Đốc tại Quảng Nam, cùng đỗ Cử nhân năm Giáp Ngọ (1894) tại trường thi Thừa Thiên, cùng đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân (đứng ngay sau Phạm Liệu) năm 1898 rồi cùng lưu lại Huế luyện Pháp văn tại Tứ Dịch quán. Năm 1901, được bổ làm tri huyện Lệ Thuỷ rồi tri huyện Bố Trạch ở Quảng Bình. Sau nhiều năm làm quan luân chuyển qua các địa phương duyên hải miền Trung, đến năm 1926, khi vua Bảo Đại lên ngôi, được điều về kinh đô làm thị lang rồi tham tri bộ Hình. Năm 1930, ông về hưu và mất tại quê nhà năm 1939.

Gia đình Phan Quang có 7 anh chị em ruột thì 4 anh em trai đều là danh sĩ: anh là tú tài Phan Xáng, em là tú tài Pham Ấm và cử nhân Phan Vĩnh. Hai trong số các con trai của ông được nhiều người biết đến là giáo sư kiêm nhà sử học Phan Khoang và nhà báo kiêm nhà văn Phan Du.

Tiến Sĩ PHẠM TUẤN

Tự là Hỷ Thần, hiệu là Văn Luân. Sinh năm 1852, mất năm 1917, quê xã Xuân Đài, tổng Phú Khương Thượng, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Nguyên tên ông là Phạm Tấn, sau đổi thành Phạm Trọng Tuấn, rồi Phạm Tuấn. Đỗ Cử nhân năm 1879, được bổ làm bang tá phủ Điện Bàn, rồi được bổ làm huấn đạo Quế Sơn quyền nhiếp tri huyện Hà Đông (Tam Kỳ), đến năm

1898 thì làm giáo thụ phủ Thăng Bình ở tỉnh nhà. Năm 1898, ông thi Đình và đỗ thứ 5 trong nhóm Đệ tam giáp lúc đã 47 tuổi. Năm 1899, ông được bổ làm thừa biện bộ Lễ. Năm 1902, làm thị giảng học sĩ. Năm 1908, làm đốc học Hà Tĩnh, hàm Quang lộc tự thiếu khanh. Năm 1913, về hưu, được thăng hàm Hồng lô tự khanh. Năm 1917, ông qua đời tại quê nhà.

Phó Bảng NGÔ CHUÂN

Còn gọi là Ngô Truân, Ngô Trân hay Ngô Lý. Sinh năm 1873, mất năm 1899, quê xã Mông Lãnh, tổng Phú Xuân, huyện Quế Sơn, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Do gia cảnh bần hàn, cha lại mất sớm, nên phải cùng thân mẫu qua ngụ cư làng Cẩm Sa, tổng Thanh Quýt, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn (nay thuộc xã Điện Nam, huyện Điện Bàn). Đỗ Cử nhân năm 1894. Năm 1898, đỗ đầu trong nhóm Phó bảng lúc mới 26 tuổi. Sau đó ông được bổ làm tri huyện Thạch Hà ở Hà Tĩnh, nhưng chưa kịp nhận nhiệm sở thì ông lâm trọng bệnh và qua đời năm 1899 khi mới 27 tuổi.

Phó Bảng DƯƠNG HIỂN TIẾN

Sinh năm 1866, mất năm 1907, người xã Cẩm Lậu, tổng Thanh Quýt, huyện Diên Phước, phủ Ðiện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc xã Điện Phong, huyện Điện Bàn). Đỗ Cử nhân năm 1891, năm 1898 đỗ thứ 3 trong nhóm Phó bảng. Không thấy ghi chép gì hành trạng làm quan của ông. Năm 1907, ông lâm bệnh thương hàn và mất ở quê nhà.

Ngoài ra còn rất nhiều nhà nho học đã để lại cho quảng Nam nói chung, Điện bàn nói riêng nhiều tác phẩm văn học ứng đối kỳ tài như cụ Tú Quỳnh, Nghè Học, …

Những nhân vật khoa bảng đất Điện Bàn đã và đang là niềm tự hào cho sĩ tử Quảng Nam, nâng bước cho nhiều thế hệ đạp trên khô mặn từ ruộng đồng, vượt khó nghèo trong áo vá quần thâm, đi vào lịch sử làm rạng rỡ quê hương.

hc0cf

XƯA NAY

ĐIỆN BÀN VÀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ

Điện Bàn xứ sở của địa linh nhân kiệt, trải dài hai thế kỷ nơi đây đã xuất lộ rất nhiều nhân tài giúp nước giúp đời. Hào khí Điện Bàn luôn râm ran hun đúc những con người chen vai làm nên lịch sử, những ai đã là người dân ở đây không thể quên mình có hạt giống đỏ tươi đó. Cuộc sống thì đa đoan nhưng lịch sử mãi đồng hành nên người họ Trần vẫn có mặt.

Ông ĐÀO BÍ

Ông người xã Nông Sơn huyện Điện Bàn. Tính người dũng cảm, ứng vụ Tướng thần bản phủ. Thời nghịch Liễn khởi loạn, ông vẫn giữ lòng trung nghĩa, có công đánh giặc được bổ Đổng Tổng tri huyện Hải Khang.

Ông NGUYỄN LỄ

Ông người xã Thọ Khang, huyện Điện Bàn. Giỏi nghề cởi ngựa bắn cung. Bấy giờ gặp lúc quốc gia lắm việc, ông theo đi đánh giẹp, có công được thăng tước Đồng Xuân Bá. Lại làm việc ở Trấn Thảo dinh, bền lòng trung nghĩa, được thăng tước Hầu kiêm Đô chỉ huy thiêm sự ở ty Đô chỉ huy thuộc kỵ vệ Phù Nam, đã được ngự tiền kén chọn làm quan đến chức Điều Bảo.

(Ô Châu cận Lục)

Cụ HOÀNG DIỆU

Tên chữ là Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày mùng 10 tháng Hai năm Kỷ Sửu (5-3-1829) tại làng Xuân Đài, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Theo phả, họ Hoàng làng Xuân Đài gốc họ Mạc ở làng Huệ Trì (nay là thôn Lộc Trì, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) di cư vào thôn Đông Bàn sau một trận lụt lớn, đến Hoàng Diệu là đời thứ bảy.

Thân phụ ông là Hoàng Văn Cự, làm hương chức, qua đời ở tuổi 54; thân mẫu là Phạm Thị Khuê thọ 88 tuổi. Suốt đời, bà tần tảo làm ruộng, chăn tằm, nuôi dạy các con thành tài. Ông bà sinh 11 người con, 8 trai và 3 gái. Trong đó, 6 người đỗ đạt: một phó bảng, ba cử nhân và hai tú tài. Khoa thi hương tại tỉnh Thừa Thiên năm 1848, Hoàng Kim Giám 23 tuổi và Hoàng Kim Tích 20 tuổi cùng đậu cử nhân. Bấy giờ, chánh chủ khảo - Tham tri bộ Binh Hoàng Tế Mỹ thấy bài văn của hai anh em có điểm giống nhau nên ngờ vực bèn tấu trình lên vua. Vua Tự Đức cho phúc hạch, mỗi người ngồi một phòng ở tả vu và hữu vu điện Cần chánh. Sau khi xét duyệt, vua Tự Đức phê rằng: “Văn hành công khí, quý đắc chân tài, huynh đệ đồng khoa, thành vi mỹ sự”, nghĩa là Sự hành văn là việc chung, cốt để chọn nhân tài, anh em đồng khoa là việc tốt đẹp.


Cụ TRẦN QUÝ CÁP

Ông sinh năm 1870, tự Dã Hàng, Thích Phu, hiệu là Thái Xuyên. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Thái La, làng Bát Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nay là thôn Nhị Dinh1, xã Điện Phước, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Lúc tuổi trẻ, ông đã nổi tiếng là một trong sáu học trò lỗi lạc của cụ Đốc học Mã sơn Trần Đình Phong tại trường Thanh Chiêm cùng với Phạm Liệu, Nguyễn Đình Hiến, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, và Phan Quang.

Mặc dù ông thông minh, học giỏi nhưng lại lận đận trong khoa trường. Năm 1903 ông vẫn còn Tú tài trong khi các bạn đồng môn: người thì Tiến sĩ, kẻ thì Phó bảng, Cử nhân. Mãi đến năm 1904 ông mới được đặc cách cho thi Hội rồi thi Đình, đỗ Tiến sĩ cùng khoa với Huỳnh Thúc Kháng. Sau khi thi đỗ làm giáo thụ Ninh Hoà, tham gia phong trào Duy Tân; bị bắt trong phong trào "Xin xâu" (1908) và bị kết án xử tử

Cụ PHẠM PHÚ THỨ

Ông sinh năm Tân Tỵ (1821) tại làng Đông Bàn [3], huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc thôn Nam Hà 1, xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam).

Ông xuất thân trong một gia đình Nho giáo, có tiên tổ từ Trung Quốc sang. Cha ông là Phạm Phú Sung, mẹ ông là Phạm Thị Cẩm (người làng Trường Giang, và là con gái một ông đồ).

Nhà nghèo, mẹ mất sớm, nhưng nhờ thông minh, chăm chỉ, và từng được Tùng Thiện Vương (Miên Thẩm) dạy dỗ, nên ông Thứ sớm có tiếng là người học giỏi

Cụ TRẦN CAO VÂN

Ông sinh 1866 - mất 1916) là một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp tại Trung kỳ Việt Nam, do Việt Nam Quang Phục Hội chủ xướng. Ông sinh năm Bính Dần (1866) tại làng Tư Phú, tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông tên thật là Trần Công Thọ, lúc lớn lên từng học và đi thi lấy tên là Trần Cao Đệ, lúc vào chùa lấy pháp danh là Như Ý, khi ra hoạt động cách mạng đổi tên là Trần Cao Vân, biệt hiệu là Hồng Việt và Chánh Minh, còn có biệt danh là Bạch Sĩ. Ông lãnh đạo khởi nghĩa cùng vua Duy TânThái Phiên năm 1916 và có thời gian hoạt động tại Phú Yên. Cuộc khởi nghĩa thất bại (do bị lộ kế hoạch khởi nghĩa), ông bị chém cùng với Thái Phiên và một số người khác. Vua Duy Tân thì bị bắt đi lưu đày ở đảo Réunion nằm giữa Ấn Độ Dương, nơi cha là vua Thành Thái cũng bị lưu đày.

Cụ NGUYỄN DUY HIỆU

Ông sinh năm Đinh Mùi (1847) tại làng Thanh Hà, huyện Duyên Phúc (nay là xã Cẩm Hà, thị xã Hội An) tỉnh Quảng Nam.

Năm Bính Tý (1876), ông thi đỗ cử nhân. Năm Kỷ Mão (1879), ông thi đỗ Phó bảng lúc 32 tuổi, được triều đình Tự Đức bổ nhiệm làm quan phụ đạo tại kinh thành Huế, được phong Hồng lô tự khanh nên người đời gọi là Hường Hiệu.

Tháng 5 năm Ất Dậu (tháng 7 năm 1885), cuộc phản công của phe chủ chiến ở Kinh thành Huế thất bại, Phụ chính Tôn Thất Thuyết phải phò vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, xuống dụ Cần vương (13 tháng 7 năm 1885).

Hưởng ứng lời kêu gọi cứu nước của vua, Nguyễn Duy Hiệu cùng Trần Văn Dư (1839-1885), Phan Bá Phiến (còn gọi là Phan Thanh Phiến, 1839-1887), Nguyễn Tiểu La (tức Nguyễn Hàm, 1863-1911), thành lập Nghĩa hội Quảng Nam (Trần Văn Dư làm Thủ hội) rồi ra bản cáo thị kêu gọi toàn dân trong tỉnh cùng đứng lên đáp nghĩa.

Ngày 4 tháng 9 năm 1885, nghĩa quân Quảng Nam bao vây chiếm tỉnh thành La Qua (còn gọi là La Thành, tức thành tỉnh Quảng Nam), buộc Bố chánh Bùi Tiến Tiên và Tuần phủ Nguyễn Ngoạn phải dẫn quân rút chạy.

Được tin khẩn, quân Pháp và quân Nam triều (triều vua Đồng Khánh thân Pháp) dưới quyền chỉ huy của tướng Schants đã phản công chiếm lại thành, rồi còn xua quân đi tấn công các căn cứ của nghĩa quân ở Đại Lộc, Quế Sơn, Tam Kỳ... Trước lực lượng đông đảo và vũ khí tối tân của đối phương, đến tháng 10 năm 1885, các căn cứ ở Dương Yên, An Lâm, Đại Đồng cũng đều lần lượt bị bao vây rồi thất thủ.

Trước tình thế nguy ngập đó, bộ chỉ huy Nghĩa hội bàn nhau chọn kế "giải binh quy điền" để bảo toàn lực lượng. Tháng 12 năm 1885, Trần Văn Dư giao quyền Thủ hội cho Nguyễn Duy Hiệu để Huế gặp vua Đồng Khánh (từng là học trò của ông), nhằm tìm ra một giải pháp. Dọc đường, ông bị quyền Tổng đốc Quảng Nam Châu Đình Kế bắt giữ và báo với quân Pháp. Bất khuất, ông mắng chửi Tổng đốc Kế. Căm tức, viên quan này đã mượn tay quân Pháp để giết chết ông tại góc thành La Qua ngày 13 tháng 12 năm 1885.

Đầu năm 1886, Nguyễn Duy Hiệu chính thức làm Hội chủ mới của Nghĩa hội, và ông đã chọn thung lũng Trung Lộc thuộc Quế Sơn đặt tổng hành dinh với tên gọi là Tân tỉnh Trung Lộc.

Từ nơi đó, Nguyễn Duy Hiệu đã tổ chức đi đánh nhiều trận, gây cho đối phương nhiều thiệt hại, như trận tập kích đơn vị công binh Pháp đang mở con đường qua đèo Hải Vân (tiêu diệt trọn đội công tác này), trận Bãi Chài (phá đội ca nô ở vàm Vân Ly trên sông Thu Bồn), trận phục kích quân Pháp và quân triều đình ở Cẩm Muồng.

Tháng 2 năm 1886, viên Khâm sứ Trung Kỳ là Hector đã điều động khoảng bốn trăm lính Pháp cùng khoảng hai trăm quân triều do Nguyễn Thân chỉ huy đã rầm rộ tiến vào căn cứ Tân tỉnh Trung Lộc. Tại trận kịch chiến ở Gò May, nghĩa quân đại bại, bản doanh bị đốt cháy, san bằng. Thấy không thể cầm cự được nữa, Nguyễn Duy Hiệu và Phan Bá Phiến liền ra lệnh đánh vượt vòng vây chạy về một làng ở gần cửa biển An Hòa thuộc Tam Kỳ.

Tướng Nguyễn Thân liền xua quân theo càn quét rất ngặt. Lại thất trận ở căn cứ Phước Sơn (thuộc Tiên Phước), tuy Nguyễn Duy Hiệu và Phan Bá Phiến chạy thoát được nhưng thế và lực thật sự đã cùng. Không thể để nghĩa quân toàn ba tỉnh bị giết hại hết, nghe lời thủ lĩnh Hiệu, Phan Bá Phiến uống thuốc độc tự sát để tránh bị bắt, còn ông Hiệu thì tự trói mình nạp mạng cho đối phương để nhận lãnh hết trách nhiệm về mình...Hôm đó là ngày 5 tháng 8 năm Bính Tuất (21 tháng 9 năm 1887).

Kế tiếp, theo sử liệu thì:

Chứng kiến xong cái chết của người đồng sự tâm phúc, Nguyễn Duy Hiệu trở về quê thăm viếng mẹ già. Xong, ông ra miếu thờ Quan Công ở giữa bãi cát Thanh Hà, mặc áo dài đen, đầu vấn khăn cẩn thận, ngồi xếp bằng trước bàn thờ, rồi sai người đi báo cho Nguyễn Thân đến bắt ông...[

Sau khi Nguyễn Duy Hiệu liền bị giải về Huế, triều đình Đồng Khánh bèn dùng danh lợi để dụ hàng, nhưng không được ông nghe. Cuối cùng, Viện cơ mật của Nam triều đã kết án tử hình ông vào ngày rằm tháng 8 năm Bính Tuất (15 tháng 10 năm 1887) tại Huế, hưởng dương 40 tuổi. Phần mộ Nguyễn Duy Hiệu hiện ở tại xã Cẩm Hà, thị xã Hội An.

Bà TRẦN THỊ LÝ

Trần Thị Lý (tên thật Trần Thị Nhâm) sanh ngày 30 tháng 12 năm 1933 tại xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Bà là một nhà hoạt động cách mạng, nữ chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt NamQuân Giải phóng miền Nam Việt Nam, tham gia trong kháng chiến chống Phápkháng chiến chống Mỹ, là nữ tù chính trị dưới các nhà tù Pháp-Mỹ và là Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Việt Nam. Bà được xem là một nữ chiến sĩ cách mạng trung kiên, gan dạ, dũng cảm, vì đã từng chịu nhiều cực hình, tra tấn dã man, vô nhân đạo trong các nhà tù Pháp-Bảo ĐạiMỹ-Diệm mà vẫn bất khuất, không khai báo, kiên trì chịu đựng, không khuất phục.

Trong thời gian dưỡng bệnh ở Hà Nội, Trần Thị Lý có tình cảm với một thương binh đồng hương. Hai ông bà có một đám cưới đơn giản và đến năm 1978 mới làm đăng ký kết hôn. Do bị tra tấn, bà mất khả năng sinh nở nên hai người nhận một con gái nuôi. Năm 1979, Trần Thị Lý từ Hà Nội về sống tại Đà Nẵng, trong điều kiện sức khỏe được phục hồi một phần. Gia cảnh gia đình bà thời gian đó khó khăn, nhiều năm liền sống trong căn nhà cấp 4 chẳng được khang trang. Tháng 2 năm 1992 bà được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Bà mất tại Đà Nẵng ngày 20 tháng 11 năm 1992.

Hình ảnh của bà đã từng là đề tài của thơ ca, nhạc, họa, phim ảnh, trong đó nổi tiếng nhất là bài thơ Người con gái Việt Nam của nhà thơ Tố Hữu.

Tên bà được đặt cho một cây cầu bắc qua sông Hàn ở Đà Nẵng. Tuy nhiên qua thời gian cầu xuống cấp và bị dỡ bỏ. Một cây cầu dây văng hiện đại đang được xây dựng để thay thế cây cầu cũ, mang tên Nguyễn Văn Trỗi–Trần Thị Lý

Bà NGUYỄN THỊ BÌNH

Nhà ngoại giao nhân dân

Cách đây 40 năm, ngày 27.01.1973 tại Pa-ri, “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết. Đó là kết quả của cuộc đấu tranh ngoại giao cam go, lâu dài nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, với 202 phiên họp chung công khai, 24 cuộc tiếp xúc riêng trong thời gian 4 năm 9 tháng (từ 13.5.1968 – 27.01.1973). Trong quá trình đàm phán đó, cả thế giới đều rất ngưỡng mộ và khâm phục ý chí kiên định, sự mềm dẻo, nhạy bén của nhà nữ ngoại giao xuất sắc - Nguyễn Thị Bình - người con của quê hương Quảng Nam.

Một chuyên gia biểu tình

Bà Nguyễn Thị Bình, tên thật Nguyễn Châu Sa, sinh ngày 26-5-1927, tại làng La Kham, Điện Quang, Điện Bàn, Quảng Nam, trong một gia đình có truyền thống cách mạng: ông nội là nghĩa binh trong phong trào Cần vương, chiến đấu và hy sinh tại quê nhà, ông ngoại là nhà chí sỹ yêu nước Phan Châu Trinh.

Từ nhỏ, Nguyễn Thị Bình theo học tại trường Lycee Sisowath ở thành phố Phnôm-Pênh, thủ đô Cam-pu-chia và tốt nghiệp tú tài tại đây. Năm 1945, vừa thi hết Tú tài phần I, Nguyễn Thị Bình bắt đầu hoạt động yêu nước trong các phong trào học sinh, sinh viên, phụ nữ yêu nước, vận động trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1948, sau khi được kết nạp Đảng, bà được giao thêm nhiệm vụ vận động phụ nữ trí thức, tham gia các hoạt động hợp pháp tại thành phố, thành lập Hội phụ nữ cấp tiến. Sau này, bà tham gia chỉ đạo các hoạt động công khai, hợp pháp tiêu biểu như cuộc chống địch giải tỏa xóm lao động Bàn Cờ, cuộc biểu tình để tang Trần Văn Ơn (ngày 09-01-1950), cuộc biểu tình phản đối tàu chiến Mỹ đến Sài Gòn. Trong các cuộc đấu tranh này, bà luôn là người có mặt ở tuyến đầu, nên đồng bào, đồng chí hoạt động nội thành thường gọi bà là “chuyên gia biểu tình”.

Tháng 4-1951, bà bị địch bắt giam tại Khám Lớn (Sài Gòn), với tội “cầm đầu gây rối, phản nghịch chống chính quyền”, sau đó bị chuyển về Khám Chí Hòa, giam gần 3 năm. Sau khi ra tù, bà tiếp tục hoạt động trong phong trào đấu tranh cho hòa bình, đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ tổ chức. Một thời gian sau, bà tập kết ra miền Bắc, công tác tại Hội Liên hiệp phụ nữ Trung ương.

Một nhà ngoại giao xuất sắc

Sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) ra đời, là người giỏi tiếng Pháp, lại có trình độ và thực tiễn hoạt động chính trị, có kinh nghiệm vận động, tuyên truyền nhân dân,… năm 1962, Nguyễn Thị Bình vinh dự được cử làm Ủy viên MTDTGPMNVN, phụ trách công tác đối ngoại. Từ đó, bà được tham dự nhiều hội nghị quốc tế và thăm nhiều nước xã hội chủ nghĩa và tiến bộ trên thế giới. Qua các hoạt động đó, bà đã góp phần nâng cao uy tín của MTDTGPMNVN tại nhiều nước trên thế giới. Đến cuối năm 1967, MTDTGPMNVN có cơ quan đại diện tại hơn hai mươi nước như Liên Xô, Trung Quốc, Cu Ba, Pháp, Đức, Mông Cổ,... và Cu Ba là nước đầu tiên đặt Đại sứ quán bên cạnh cơ quan MTDTGPMNVN (ngày 30-6-1967).

clip_image060

Bà Nguyễn Thị Bình tại Hiệp Định Paris

Cuối năm 1968, Nguyễn Thị Bình được cử làm Trưởng đoàn trù bị, rồi Phó Trưởng đoàn của MTDTGPMNVN tham dự Hội nghị Pa-ri (Trưởng đoàn là ông Trần Bửu Kiếm, Ủy viên Đoàn Chủ tịch

Ủy ban TWMTDTGPMNVN). Ngày 04-11-1968, khi vừa đến Pa-ri, bà đã phát biểu ngay về “Giải pháp 5 điểm” của MTDTGPMNVN, trong đó nhấn mạnh: 1. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam phấn đấu thực hiện, độc lập, dân chủ hòa bình tiến tới thống nhất Tổ quốc; 2. Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút khỏi Việt Nam; 3. Công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam do nhân dân miền Nam Việt Nam tự giải quyết; 4. Việc thống nhất Việt Nam do nhân dân Việt Nam tiến hành; 5. Miền Nam Việt Nam thực hiện chính sách ngoại giao, hòa bình, trung lập,…

Tuyên bố trên ngay lập tức đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của dư luận quốc tế. Trong hồi ký của mình, bà viết: “Ngay từ phút đó, tôi càng thấy rõ trách nhiệm của mình hơn và có một nguồn động viên rất lớn. Tại đó, tôi đã phát biểu ngay về giải pháp 5 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và được tất cả mọi người xung quanh hoan nghênh nhiệt liệt. Bạn bè Pháp, bà con Việt kiều hô vang: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam muôn năm! Việt Nam nhất định thắng!. Lần đầu tiên giữa thủ đô tráng lệ, người dân Pa-ri bắt gặp một đoàn xe Deesse (Nữ thần) phấp phới những lá cờ nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vàng, có ô tô và mô tô của cảnh sát Pháp dẫn đường hộ tống. Ngồi trên xe, nhìn lá cờ Mặt trận, tôi không nén được bồi hồi, xúc động...”.

Sự xúc động của bà có lý do riêng. Năm 1951, bà bị thực dân Pháp bắt và tra tấn ở Sài Gòn khi đang hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên. Giờ đây giữa thủ đô nước Pháp, chính bà và các đồng chí của mình lại được đón tiếp với đầy đủ nghi lễ ngoại giao, trong tư thế người đại diện của nhân dân miền Nam Việt Nam đang chiến đấu và sẽ ngồi vào đàm phán với một đế quốc lớn nhất là Mỹ.

Hôm sau, tất cả các báo phát hành ở Pháp đều đăng tựa đề lớn: Đại diện của Việt cộng đã đến Pa-ri. Kèm theo đó là những tường thuật và bình luận về cuộc đón tiếp người phụ nữ đại diện của “Việt cộng” với những tình tiết thật ly kỳ: “Việt cộng đã thắng

lớn qua cuộc đón tiếp bà Bình ở Pa-ri”, “Bà Bình như một bà hoàng, được đón như một quốc trưởng với đủ nghi thức chính quy, lại được hoan nghênh nhiệt liệt”, “Bà Bình đã làm chấn động dư luận Pa-ri và thế giới. Cờ Mặt trận đã tung bay ở Pa-ri! Rất tuyệt! Thật hiếm có”,…

Những kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời ngoại giao

Tháng 6-1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (Chính phủ CMLT) được thành lập, Nguyễn Thị Bình được phân công giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao và Trưởng đoàn Đại biểu Chính phủ CMLT tại Hội nghị Pa-ri, thay thế đoàn Đại biểu MTDTGPMNVN.

Việc Nguyễn Thị Bình được cử làm Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ CMLT tại Hội nghị Pa-ri là có chủ định. Bởi vì bà đã tốt nghiệp tú tài, rất giỏi tiếng Pháp và có quá trình hoạt động chính trị nhiều năm. Hơn nữa, trong cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt giữa một nước nhỏ chống lại một đế quốc lớn, mà đứng đầu phái đoàn là một người phụ nữ vừa gây sự chú ý, vừa tranh thủ được thiện cảm của dư luận thế giới, rõ ràng tạo thêm thuận lợi cho hoạt động đối ngoại, như lời nhận xét của bà sau này: “Nếu mình là phụ nữ biết ứng xử khôn khéo thì người ta cũng dễ có tình cảm hơn, sẽ nghe những điều mình muốn nói về lập trường của mình”.

Những năm tháng tham gia đàm phán ở Hội nghị Pa-ri là một thử thách khắc nghiệt: “Hội nghị Pa-ri là một trận chiến quyết liệt, là những keo vật không đứt giữa các kỳ phùng địch thủ”. Nhưng hình ảnh “madam Bình” theo cách gọi của giới truyền thông vẫn luôn gây ấn tượng mạnh với báo chí phương Tây, bởi những lời phát biểu đầy thuyết phục, thông minh, lúc rắn rỏi, khi dí dỏm làm cho thế giới nể trọng, nhân dân nức lòng. Trên bàn đàm phán, mọi người đều nhận thấy Nguyễn Thị Bình là một người phụ nữ mềm mại nhưng khéo léo và đầy bản lĩnh. Khoảng thời gian giữa hai kỳ họp là một khối lượng công việc lớn và đầy căng thẳng. Bà vừa tổ chức họp báo, trả lời phỏng vấn, tham dự các hội nghị quốc tế, đi các nước châu Á, châu Âu, châu Phi, nhất là chuẩn bị thông tin, nghiền ngẫm cách đối phó trước những đòn tấn công ngoại giao sắc bén trong các cuộc đàm phán phía trước.

Có lần, một nhà báo phương Tây hỏi: “Bà có ở Đảng Cộng sản không?”. Bà nhanh nhẹn trả lời: “Tôi thuộc Đảng yêu nước”. Câu trả lời thông minh ấy đã khiến nhà báo kia phải cứng họng. Trong quá trình đàm phán, bà luôn tâm niệm: “Họ có quyền hỏi, mình có quyền trả lời. Nhưng trả lời thế nào để họ tâm phục khẩu phục, hiểu rõ hơn cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc mình, đó mới là điều quan trọng”.

Ngày 27-01-1973, Hiệp định Pa-ri về Việt Nam được ký kết. Đây là vinh dự lớn lao trong cuộc đời hoạt động của bà, mỗi khi nhớ về sự kiện trọng đại này, bà vẫn tự hào: “Khi đặt bút ký vào bản hiệp định chiến thắng, nghĩ đến những đồng bào, đồng chí ngã xuống - những người không còn có thể biết được sự kiện trọng đại này, mắt tôi bỗng nhòe ướt. Trong cuộc đời tôi, đây là vinh dự rất lớn vì được thay mặt nhân dân, các chiến sĩ cách mạng để đấu tranh trực diện với kẻ thù xâm lược ngay tại Pa-ri, được đặt bút ký vào bản hiệp định chiến thắng sau 18 năm cả nước tiến hành cuộc chiến đấu chính nghĩa đầy hy sinh gian khổ… Đó có lẽ là kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời ngoại giao của tôi”.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (ngày 30-4-1975), bà được bổ nhiệm là Bộ trưởng Bộ giáo dục Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất, tháng 02-1987, bà được phân công làm Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Liên hiệp Hòa bình Đoàn kết hữu nghị với Việt Nam; đại biểu Quốc hội các khoá VI, VII, VIII, IX, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Bà nghỉ hưu năm 2002.

Thời gian giữ chức Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Phó Chủ tịch nước, đồng chí Nguyễn Thị Bình có nhiều đóng góp trên lĩnh vực tuyên truyền, giới thiệu về đường lối đối ngoại của Việt Nam, củng cố tăng cường hữu nghị giữa Việt Nam với các tổ chức quốc tế cũng như với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Đặc biệt, bà đã góp phần đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước lớn, tạo được uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Giờ đây, ở tuổi 85, sự đóng góp của vị “sứ giả hòa bình” Nguyễn Thị Bình vẫn là biểu tượng sáng ngời về phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.

Cụ PHAN KHÔI

Phan Khôi sinh ngày 6 tháng 10 năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là con của Phó bảng Phan Trân (tri phủ Điện Khánh) và bà Hoàng Thị Lệ (con gái Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu). Ông có quan hệ họ hàng với nhà cách mạng Phan Thanh và Phan Bôi tức Huỳnh Hữu Nam. Ông học giỏi Nho văn và đỗ tú tài năm 19 tuổi. Sau đó ông gặp cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Châu Trinh và bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của hai cụ.

Năm 1907, ông ra Hà Nội, tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục và làm việc cho tạp chí Đăng Cổ Tùng Báo. Khi tờ tạp chí bị cấm ông về Nam Định rồi về Hải Phòng ẩn náu. Ít lâu sau ông lén về Quảng Nam hoạt động trong phong trào Văn Thân cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng. Trong một cuộc biểu tình đòi giảm thuế, tức vụ Trung Kỳ dân biến, ông bị bắt và giam tại nhà tù Quảng Nam đến năm 1914 thì được ân xá.

Ra khỏi tù, ông lại về Hà Nội viết cho báo Nam Phong. Vì bất bình với Phạm Quỳnh, ông bỏ Hà Nội vào Sài Gòn viết cho báo Lục Tỉnh Tân Văn. Năm 1920, ông lại trở ra Hà Nội viết cho báo Thực Nghiệp Dân Báo và báo Hữu Thanh. Năm 1928, Thực Nghiệp Dân Báo và Hữu Thanh bị đóng cửa, ông lại trở vào nam viết cho báo Thần Chung và Phụ nữ tân văn. Năm 1931, Phan Khôi trở ra Hà Nội viết cho tờ Phụ nữ thời đàm.

Năm 1936, ông vào Huế viết cho tờ Tràng An và xin được phép xuất bản báo Sông Hương. Năm 1939, Sông Hương đóng cửa, Phan Khôi lại trở vào Sài Gòn dạy học chữ Nho và viết tiểu thuyết. Sau năm 1945, tức sau Cách mạng tháng Tám, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời từ Quảng Nam ra Hà Nội tham gia kháng chiến với cương vị một nhà văn hóa, sau lại lãnh chức vụ chủ nhiệm Chi bộ Quảng Ngãi của Việt Nam Quốc dân đảng.

Ông ở Việt Bắc suốt 9 năm nhưng vì bị bệnh nên phải vào bệnh viện một thời gian. Cuối năm 1954 hòa bình lập lại, Phan Khôi về Hà Nội cùng với các văn nghệ sĩ khác. Trong thời gian 1956-1957, là một trong những người thành lập tờ Nhân Văn và có các bài phê phán giới lãnh đạo văn nghệ lúc bấy giờ, ông bị cấm sáng tác cho đến khi qua đời năm 1959 tại Hà Nội.

Khi mất, ông được chôn cất tại nghĩa trang Mai Động, sau đó, theo cơn biến động, các ngôi mộ buộc phải thuyên chuyển, bị san phẳng đi. Mộ ông Phan Khôi đã nằm trong những ngôi mộ vô thừa nhận không ai biết, đến nay ngay cả con cháu ông cũng không biết mộ ông nằm ở đâu.

Năm 2007, kỷ niệm 120 năm ngày sinh của ông, Một tọa đàm về ông đã được Tạp chí Xưa và Nay, Hội khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức. Loạt sách Phan Khôi - Tác phẩm đăng báo, do nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm, cũng được xuất bản những tập đầu.

Anh NGUYỄN VĂN TRỖI

Anh sanh năm 1940 – hy sinh ngày 15 tháng 10 năm 1964.

Là một người đã thực hiện cuộc đánh bom không thành nhằm mưu sát Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ khi đó là Robert McNamara. Tuy bị bắt và bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa kết án tử hình, nhưng ngay trong quá trình xét xử ông, ông đã trở nên nổi tiếng với những lời tuyên bố nảy lửa và được những người cộng sản Việt Nam tôn vinh như một người anh hùng trong Chiến tranh Việt Nam.

Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm 1940 tại làng Thanh Quít, xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Lớn lên, ông làm thợ điện ở nhà máy điện Chợ Quán và tham gia tổ chức Biệt động thành, Đại đội quyết tử cánh Tây Nam Sài Gòn.

Ngày 2 tháng 5 năm 1964, ông nhận nhiệm vụ đặt mìn ở cầu Công Lý (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi), để ám sát phái đoàn quân sự chính trị cao cấp của Chính phủ Mỹ do Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara dẫn đầu. Công việc bại lộ, ông bị bắt ngày 9 tháng 5 năm 1964.

Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đưa ông ra tòa án quân sự kết án tử hình. Để cứu ông, một tổ chức du kích Venezuela tuyên bố trao đổi ông với một con tin là trung tá không quân Mỹ là Michael Smolen mà họ vừa bắt giữ. Tuy nhiên, sau khi viên sĩ quan Mỹ vừa đuợc trả tự do thì ông bị đưa đi xử bắn tại sân sau nhà lao Chí Hòa ngày 15 tháng 10 năm 1964.

Mẹ NGUYỄN THỊ THỨ

Theo tấm thẻ căn cước do Việt Nam Cộng Hoà cấp số 02238802, năm sinh của Mẹ Nguyễn Thị Thứ là 1902. Giấy chứng minh nhân dân số 200624222 do chính quyền cách mạng cấp lại ghi năm sinh của bà là 1904. Bà sinh tại xóm Rừng ở xã Điện Thắng Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Vùng đất này có nhiều bà Mẹ Việt Nam anh hùng, riêng xã Điện Thắng Trung đã có 14 người.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Mẹ Nguyễn Thị Thứ lần lượt nhận 9 giấy báo tử của các con. Tại khu vườn của nhà bà có 5 hầm bí mật, nơi bà và con gái đầu là bà Lê Thị Trị nuôi giấu nhiều cán bộ, bộ đội, du kích. Trên miệng hầm bà thả hàng chục con bò ăn cỏ ngay trong vườn. Lúc không có địch, hai mẹ con bà mở hé cửa hầm cho "anh em mình thở", khi có động thì giả vờ đi coi bò để chỉnh sửa, ngụy trang lại miệng hầm.

11 lần khóc thầm lặng lẽ! Bốn người con của Mẹ Thứ hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp gồm Lê Tự Xuyến, Lê Tự Hàn (anh), Lê Tự Hàn (em), cùng năm 1948 và Lê Tự Lem, năm 1954. Bảy người con, rể, cháu hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ gồm các con trai: Lê Tự Nự, năm 1966; Lê Tự Mười, năm 1972; Lê Tự Trịnh, năm 1972; Lê Tự Thịnh, năm 1974 và Lê Tự Kiệt (Chuyển), năm 1975; con rể Ngô Tường, năm 1957 và cháu ngoại Ngô Thị Cúc, năm 1973.

Mẹ Nguyễn Thị Thứ đã được chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Quốc hội Việt Nam trao tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng vào ngày 17 tháng 12 năm 1994. Khi đến thăm bà, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã cầm tay bà và nói: "Mẹ đã tiếp thêm nghị lực cho chúng con vững bước. Mẹ là Mẹ Việt Nam".

Bức tượng Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng Nguyễn Thị Thứ do tác giả Nguyễn Long Biểu sáng tác bằng đá sa thạch hiện được trưng bày tại khu vực ngoài trời của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Chiếc nồi đồng bà dùng nấu cơm, đun nước uống cho chồng và các con cùng bộ đội, du kích đánh giặc trong kháng chiến chống Mỹ (1955-1975) được trưng bày trong chuyên đề Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng của bảo tàng này.

Ngày 27 tháng 7 năm 2009, tại tỉnh Quảng Nam đã khởi công xây dựng Tượng đài Mẹ Việt Nam Anh Hùng và khu tưởng niệm mang tầm vóc quốc gia lấy nguyên mẫu hình tượng của bà. Dựa theo thiết kế của hoạ sĩ Đinh Gia Thắng, tượng đài được xây dựng trên diện tích 15 ha trên đỉnh núi Cấm, thuộc thôn Phú Thạnh, xã Tam Phú, thành phố Tam Kỳ. Tổng mức đầu tư cho tượng đài là hơn 81 tỉ đồng được huy động từ nguồn vốn ngân sách và đóng góp của các tổ chức, cá nhân.

Lịch sử hình thành và phát triển Điện Bàn gắn liền với cuộc đời nhiều chí sĩ, chiến sĩ và còn rất nhiều nhân vật tại đất Điện Bàn truyền thống, như: Lê Đình Dương, Phan Thành Tài, Phan Thúc Duyên, Trương Công Hý, Lương Khắc Ninh, Đinh Hùng, Phan Thanh, Tống Phước Phổ,…. Bảy dũng sĩ Điện Ngọc … Họ đã tô vẽ cho quê hương nầy giàu đẹp, văn hóa, văn minh, yêu nước trong một thành trì xây bằng trái tim, bằng con người.

Ông PHAN DIỄN

Cha mất sớm khi ông mới 2 tuổi, ông chịu ảnh hưởng từ hoạt động của người mẹ trong Hội Truyền bá Quốc ngữ tại Huế. Ngôi nhà số 165A, phố Henri D’Orleans, Huế, nơi cư trú của gia đình ông, cũng là nơi liên lạc của các cán bộ Cộng sản hoạt động trong phong trào dân chủ Đông Dương.

Tháng 5 năm 1945, ông theo mẹ về Quảng Nam và bắt đầu hoạt động trong Đội Nhi đồng Cứu quốc, một tổ chức thiếu niên trong Mặt trận Việt Minh.

Trưởng thành dần trong hoạt động thanh thiếu niên, ông được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam năm 1962 và trở thành một cán bộ hành chính trong bộ máy chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, làm Trợ lý cho Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh.

Năm 1988, ông được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng. Năm 1991, ông đắc cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII.

Năm 1996, ông tái đắc cử Ủy viên Trung ương khóa VIII, được phân công làm Chánh Văn phòng Trung ương Đảng. Tháng 12 năm 1997, ông được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị, được phân công làm Trưởng Ban Kinh tế trung ương.

Năm 2000, ông được chỉ định làm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.

Năm 2001, ông tái đắc cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, được bầu vào Bộ Chính trị. Tháng 1 năm 2002, ông được bổ sung vào Ban Bí thư, được phân công làm Thường trực Ban Bí thư.

Năm 2006, ông thôi nhiệm các chức vụ Đảng. Năm 2008, ông tham gia sáng lập và được bầu làm làm Chủ tịch Quỹ Hỗ trợ thiên tai miền Trung, một tổ chức phi chính phủ, có nhiệm vụ vận động tài trợ cho các dự án phòng tránh thiên tai ở 14 tỉnh ven biển miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận.

hc0cf

ĐIỆN BÀN ĐẤT VÕ

400 NĂM HUYỀN THOẠI VÕ LONG XÀ

Tung Sơn - Thiếu Lâm là một hệ phái võ lâm lừng danh của Trung Hoa. Bởi vậy mới có câu “Thiên hạ công phu xuất Thiếu Lâm” (mọi công phu võ thuật trong thiên hạ đều xuất phát từ Thiếu Lâm). Và khi nói đến Thiếu Lâm công phu không thể bỏ qua Ngũ hình quyền (Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc), do tăng nhân Bạch Ngọc Phong, sáng chế ra để làm cơ sở nền tảng cho Thiếu Lâm ngày nay… Tuy nhiên, đó là cách nói của người Trung Hoa.

Ở nước ta cũng có một võ tướng sáng chế ra bộ quyền pháp bí truyền đặt tên võ Long Xà.

Quyền pháp này không liên quan gì đến Thiếu Lâm công phu song đã làm nên những trận đấu đài kinh thiên động địa, đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước võ phái Long Xà đã cống hiến cho cách mạng biết bao người con ưu tú…

Sáng lập võ phái giúp đời, giúp nước

Làng Châu Bí nằm dưới chân núi Bồ Bồ, ngày nay thuộc xã Điện Tiến, huyện Điện Bàn, Quảng Nam.

Sách “Đại Nam nhất thống chí” có ghi, tướng quân Hồ Công Sùng làm quan triều Mạc, nổi tiếng là người đảm lược, tài ba nên được làm đến chức “Đô chỉ huy sứ Thiêm sự vệ phủ Nam”. Đầu thế kỷ XVII, tướng quân Hồ Công Sùng từ quan dẫn ba người con trai vào miền đất Châu Bí khai hoang, mở đất. Và, việc đánh rắn, đuổi cọp trên núi Cấm đã được ông đúc kết kinh nghiệm, sáng chế ra những thế võ độc đáo, đặt tên là võ Long Xà.

Nó hoàn toàn khác với “Ngũ hình quyền” của Thiếu Lâm công phu do tăng nhân Bạch Ngọc Phong đời nhà Minh sử dụng “Thất Thập Nhị quyền pháp” của sư Giác Viễn kết hợp với bài tập khí công của Y sư Hoa Đà thời Tam Quốc và “Bát đoạn cẩm” mà triển khai thành. Quyền pháp võ Long Xà được mô phỏng từ những thế trườn, quật bắt mồi của loài rắn dữ, song cương nhu kết hợp làm cho thân pháp của người luyện võ dẻo dai, uyển chuyển như rồng cuộn trong mây; đòn, thế đánh ra người ngoài cuộc nhìn ngỡ nhẹ như bông mà thực chất đối phương đón đỡ nặng tựa ngàn cân…

Tôi có cái may mắn là đã từng được nói chuyện với võ sư Hồ Điệp, Chưởng môn đời thứ 8 võ phái Long Xà, khi ông còn sống. Võ sư Hồ Điệp đã kể cho tôi nghe về sư phụ của mình là võ sư Hồ Hương, một thời tiếng tăm lừng lẫy…

Tuổi thanh niên, Hồ Hương có sức khỏe hơn người lại rất đam mê võ thuật nên ngoài việc rèn luyện tinh thông quyền pháp võ Long Xà, ông còn rước một võ sư người Pháp tên là Big Bag về để học thêm võ thuật của người nước ngoài. Với ý chí tự tôn dân tộc, quyết không để người Pháp coi thường dân ta là “Annamite”, Hồ Hương mời Big Bag về nhà hầu hạ cơm nước gần một năm trời để học thêm những miếng võ lạ. Cho đến một hôm, Big Bag nói rằng đã dạy hết những gì mình đã học được cho Hồ Hương, chỉ còn để lại một tuyệt chiêu “làm vốn”. Rồi Big Bag ra điều kiện, nếu Hồ Hương đánh trúng mình 5 roi, sẽ dạy nốt tuyệt chiêu này.

Với khao khát học cho bằng được tuyệt chiêu của Big Bag, Hồ Hương đã ngày đêm suy nghĩ sáng chế ra 5 đường roi có thể gọi là tuyệt kỹ công phu. Khi giao đấu với Big Bag, ông đã triển khai 5 đường roi như giông bão làm cho vị võ sư của “mẫu quốc” tối tăm mày mặt và lãnh trọn 5 đòn vào những yếu huyệt trên người.

Ông Hồ Điệp là cháu gọi Hồ Hương là bác ruột. Võ sư Hồ Hương không có con trai nối dõi nên đem ông Điệp về nuôi và truyền dạy tất cả những ngón võ bí truyền của phái Long Xà. Nhắc đến võ sư Hồ Điệp, ngày nay, người làng Châu Bí và các môn sinh võ phái Long Xà vẫn còn nhớ vị võ sư tài ba và đức độ này. Ai cũng kể, võ sư Hồ Điệp tuổi ngoài 90 mà mỗi ngày vẫn múa roi, đi quyền ít nhất cũng vài giờ đồng hồ. Năm tròn 100 tuổi, ông bị ốm, bỏ roi nằm liệt giường được 28 ngày thì mất.

Chuyện để đời của những võ sĩ thành danh.

Võ sư Hồ Công Vinh, con trai của võ sư Hồ Điệp, giờ đây đã 54 tuổi, tóc điểm hoa cau. Ấy vậy, đường roi, thế quyền của vị Chưởng môn võ phái Long Xà đời thứ 9, đánh ra vun vút tựa chớp giật. Tôi ngồi ở sân nhà thờ họ Hồ Công - Châu Bí để xem võ sư

Hồ Công Vinh biểu diễn mà cứ ngỡ ông đang còn ở tuổi thanh niên. Khi kể chuyện cho tôi nghe về những võ sĩ tài ba của võ phái Long Xà, giọng võ sư Hồ Công Vinh sang sảng như chuông…

Trong rất nhiều võ sinh Long Xà thành danh, phải kể đến hai anh em Hồ Cưu và Hồ Cập. Tên tuổi của những võ sĩ này cũng đã được khắc ghi vào cuốn “Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Điện Tiến giai đoạn 1930-1975”. Hồ Cưu và Hồ Cập gọi võ sư Hồ Điệp là chú ruột vì thế cả hai được truyền dạy tất cả những tuyệt kỹ công phu võ Long Xà. Tuy nhiên, Hồ Cưu chuyên tâm nghiên cứu thế võ “bắt ngựa” và nhờ nó mà ông đã nổi danh.

Chuyện rằng, khi còn thanh niên, một đêm đi chơi ngang qua đình Thái Cẩm, ông lọt giữa vòng vây của 74 võ sư, võ sĩ khét tiếng làng bên, với mục đích hạ sát ông cho bằng được. Thế nhưng, ông như một Triệu Tử Long một mình tả xung, hữu đột, túm lấy đối phương từng người một quẳng ra xa, không hề hại chết một ai cho đến khi võ sư Hồ Điệp dẫn học trò tới giải vây. Ngày hôm sau, trận đấu đó đồn đại lọt tới tai quan phủ Điện Bàn nên đôi bên bị gọi lên hỏi tội gây rối trật tự trị an.

Tại huyện đường, Hồ Cưu đưa ra chiếc áo dài ông mặc đã bị đối phương đâm, chém làm rách 21 chỗ, song cơ thể ông vẫn không có một dấu tích gì. Vì thế, quan phủ cảm phục mà cho ông trở về nhà không truy cứu nữa. Trong các năm 1943-1944, võ sĩ Hồ Cưu đã tham gia cách mạng, ông là một trong số Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Tổng Định An, Điện Bàn. Sau năm 1945, ông làm huấn luyện viên võ thuật cho lực lượng vũ trang cách mạng của tỉnh Quảng Nam. Năm 1948, ông hy sinh trên đường đi công tác, khi vượt sông Thu Bồn…

Không thua kém anh, võ sĩ Hồ Cập cũng từng nổi danh là võ sĩ vô địch miền Nam trước ngày đất nước giải phóng. Hồ Cập đã mày mò nghiên cứu thành công một cú đá hiểm hóc đặt tên là “Nghịch cước xuyên tâm”. Với đòn đánh này ông đã nhiều lần thượng đài, hạ đo ván những võ sĩ tiếng tăm lừng lẫy ở khu vực Nam Trung Bộ và Sài Gòn như: Bửu Tuyền, Huỳnh Tiến, Huỳnh Cảnh…

Đến bây giờ, hễ nhắc tới Hồ Cập là người xứ Quảng nhớ ngay đến trận đấu đài của ông với Tôn Ngọc Lộc, một “võ lâm đệ nhất” của võ đoàn “Long Hổ Hội” vào đầu thập niên 60 thế kỷ XX. Lúc đó, Hồ Cập đã 40 tuổi, cán bộ Đảng bộ khu vực Châu Bí, hoạt động bán công khai. Tôn Ngọc Lộc thượng đài và đánh bại nhiều đối thủ bằng những chiêu thức hiểm ác nên y rất kiêu căng, tự phụ.

Sau khi dựng đài thi đấu ở Trung Phước, Quế Sơn, Tôn Ngọc Lộc liên tục hạ gục nhiều võ sĩ nên y càng được thể, lớn tiếng huênh hoang rằng, xứ Quảng chẳng có nhân tài võ thuật. Nghe thiên hạ đồn rầm, Hồ Cập xin sư phụ Hồ Điệp đi thi đấu với Tôn Ngọc Lộc. Vào trận, thấy Hồ Cập nhỏ con hơn, họ Tôn lao vào tấn công tới tấp. Võ sĩ Hồ Cập bình thản đón đỡ cho tới hiệp đấu thứ ba bất ngờ ông tung cú “Nghịch cước xuyên tâm”, người xem chỉ nghe Tôn Ngọc Lộc “hự” một tiếng rồi đổ vật xuống sàn.

Bấy giờ, Hồ Cập bước tới đỡ y dậy mà dạy rằng: “Anh là người có tài, nhưng phải chuyên tâm rèn luyện đạo đức hơn nữa trong nghiệp võ thuật...”, rồi ra hiệu cho đám đệ tử của y đưa đi cấp cứu. Sau khi được cách mạng rút vào hoạt động bí mật, võ sĩ Hồ Cập vừa làm bảo vệ, liên lạc cho các đồng chí Hồ Nghinh, Năm Dừa ở Khu ủy Khu V và Ban An ninh Quảng Đà. Ông hy sinh trong một trận đánh tại Hòa Phước, Hòa Vang trong cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968…

Nỗi niềm người soạn sách võ Long Xà

Võ sư Hồ Công Vinh cho biết, từ khi võ phái Long Xà ra đời đã có quy ước, không truyền cho người ngoại tộc. Ngay cả con gái tộc Hồ Công cũng không được truyền dạy hết những thế võ bí truyền. Thế nhưng, đến đời võ sư Hồ Điệp thì ông đã “bước qua” quy ước dạy võ cho thanh niên trai tráng trong làng, ngoài tỉnh để họ tham gia kháng chiến cứu nước…

Ấn chỉ trên bạch đai của võ sư Hồ Công Vinh được khắc từ thời võ tướng Hồ Công Sùng sáng lập võ phái Long Xà.

Khi còn trong bộ đội, ông Vinh đã nhiều lần tham gia thi đấu các giải võ thuật cổ truyền. Đến năm 1981, xuất ngũ về lại quê nhà, được sự khuyến khích của võ sư Hồ Điệp, ông đã chuyên tâm nghiên cứu võ Long Xà, rồi được sự cho phép của chính quyền địa phương ông mở lò dạy võ. Theo tinh thần của cha, không được để võ Long Xà mai một, ông đã dốc tâm truyền thụ tất cả quyền pháp bí truyền cho những học trò có đức độ, có chí hướng giúp đời, giúp nước. Cho đến nay, con số học trò của võ sư Hồ Công Vinh đã lên đến hàng nghìn người.

Điều đáng nói, các võ sinh đã không phụ lòng tin tưởng của ông, giành thành tích xuất sắc trong các giải thi đấu võ thuật cổ truyền quốc gia và khu vực Đông Nam Á. Các em cũng là những công dân tham gia rất nhiệt tình trong lực lượng Công an, dân phòng bảo vệ ANTT địa phương… Và không chỉ học võ, học trò của võ sư Hồ Công Vinh học văn hóa cũng rất chăm, thường niên có đến hàng chục em thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp…

Võ sư Hồ Công Vinh tâm sự rằng, ông đang tập hợp tất cả những quyền pháp võ Long Xà để viết lại thành cuốn sách “Võ Long Xà” lưu truyền hậu thế. Và ông mơ ước chính quyền địa phương tích cực hỗ trợ để ông phát huy hơn nữa trong công việc dạy võ tại quê nhà.

Long Vân

hc0cf

Lời bạt

clip_image062Tôi là người họ Trần, mang theo dòng máu nhuộm thắm tình quê Thiên Trường, Tức Mạc. Dòng họ tôi, ông bà vào miền Trung dựng cơ ngơi tại làng Thanh Châu, tổng Thanh Châu, huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn tức thành phố Hội An ngày nay. Là Tiền Hiền Thanh Châu và Tiền Hiền Mỹ Khê, ba thế hệ phò vua Quang Trung nhưng hậu duệ liên lụy quan quyền và bà Tổ cô là vợ vua Quang Trung nên phải chịu nhiều lận đận.

Tôi luôn nhắc ai họ Trần phải biết tự hào về nòi giống của mình. Những ai họ Trần đều chung nguồn cội, dòng máu nguyên sinh luôn hiện diện trong ta trừ khi chữ Trần không còn bên ta nữa.

Tôi đã nhập vai thành con cháu họ Trần làng Kỳ Lam để viết tập “NGƯỜI HỌ TRẦN làng Kỳ Lam” để góp phần vì họ Trần chung nguồn cội.

Khi ngồi tại Sài Gòn mà hình dung cả một quá khứ của một họ lớn thật là một điều không dễ, hơn nữa đất Kỳ Lam cũng chưa ghé được nhiều dù rằng Quảng Nam là quê hương tôi.

Ông Trần Văn Hòa, người của tộc tài trợ và cung cấp thông tin. Ông Hòa tuổi đã ngoài 80, chân đi đã đến lúc phải lựng khựng, muốn nói với tôi một điều gì về dòng họ phải đợi trí nhớ ổn định; tuy chợt quên chợt nhớ nhưng điều ông cung cấp là chính xác. Ông không khoe khoan sự đóng góp của mình nhưng muốn đời sau hiểu những gì con cháu phải làm, đồng thời giải bày những khúc mắc trong dòng họ để cảm thông.

Nhiều lần ghé bàn viết của tôi để bày tỏ, tôi ghi nhận, tôi thấu hiểu nhưng không thể hình thành đầy đủ cho dòng họ như một lược sử gia tộc được nên tôi đã tham khảo nhiều sách để phân tích, lấy kinh nghiệm để trả lời những khúc mắc gia tộc lâu nay hoài nghi và biên soạn.

Chắc chằn còn nhiều thiếu sót, 400 năm trôi đi tổ tiên để lại mấy trang làm sao đời sau thấu trọn, nhưng những gì có nơi đây chính là cái mốc cho lớp kế thừa viết tiếp. Nghĩ đến họ Trần, mến lòng hiếu để vì dòng họ của ông Trần Văn Hòa tôi dốc tâm ghi lại xin kính dâng tổ tiên. Hy vọng món quà mà ông Hòa để lại là niềm vui lớn của ông và cả họ. Điều thiếu sót chính hậu duệ họ Trần Kỳ Lam là người vun bồi đầy đủ.

Cẩn bút

Trần văn Đường

Thành phố Hồ Chí Minh tháng 6 năm Quý Tỵ (2013)

TRONG SỐ NẦY

1/ Lời giới thiệu

2/ Phả ký bản chữ Nho, âm và dịch

3/ Họ Trần từ trong Nguồn cội

4/ Mộc Hàn nơi ông bà đã đừng chân khai nghiệp

5/ Họ Trần trên đất Kỳ Lam

6/ Hình ảnh Từ đường họ Trần Kỳ Lam

7/ Hình ảnh nghĩa địa họ Trần

8/ Cốt nhục tình thâm gương từ muôn thuở

9/ Tổ tiên che bóng con cháu mãi yên lành

10/ Các bài văn tế của tộc

11/ Tông đồ phái Nhất chi Tư

12/ Bảng danh sách đóng góp xây dựng

13/ Ngũ Phụng tề Phi niềm tự hào sĩ tử Quảng Nam

14/ Xưa nay, Điện Bàn và Nhân vật Lịch sử

15/ Điện Bàn đất võ

16/ Lời bạt của người viết bài

 
  clip_image063

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét